|
Ông Trương Văn Vở- Phó Trưởng đoàn, chủ trì cuộc họp |
Cuộc họp với sự tham gia của đại biểu Quốc hội Huỳnh Tấn Kiệt, Phạm Thị Hải và đại diện UBMTTQ tỉnh, Ban pháp chế, Ban KTNS- HĐND tỉnh, các Sở Tài chính, Tài nguyên Môi trường, Cục Thuế tỉnh Đồng Nai. Tại cuộc họp, các đại biểu đều đã thống nhất về sự cần thiết ban hành Luật, với mục đích nâng pháp lệnh thành Luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, cụ thể rõ ràng và có điều kiện thuận lợi để tổ chức thực thi pháp luật... Về nội dung của các điều luật, các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến vào các điều quy định về đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, sản lượng tài nguyên thực tế khai thác, giá tính thuế, thuế suất, kê khai nộp thuế và việc miễn giảm thuế...
|
Bà Hoàng Thị Bích Hằng- Phó ban KTNS, HĐND tỉnh, phát biểu |
Đối với đối tượng chịu thuế, phần lớn các đại biểu đều đề nghị xác định rõ các loại tài nguyên thiên nhiên để đưa vào đối tượng chịu thuế, không nên ghi theo Khỏan 8 của Điều 2 trong dự thảo luật; đối với sản phẩm của rừng tự nhiên, không nên đưa các lọai động vật vào đối tượng chịu thuế, vì ngay trong phần thuế suất, dự luật đã không xác định được loại động vật nào thuộc nhóm, loại tài nguyên, đồng thời theo quy định hiện hành thì đã cấm khai thác động vật từ rừng tự nhiên. Đồi với thuế suất, các đại biểu đều đề nghị không nên để biên độ khung thuế suất quá cao, nên thu hẹp bằng cách nâng mức tối thiểu, đãm bảo mức tối thiểu phải cao hơn mức quy định trong Pháp lệnh thuế tài nguyên.
|
Phó Trưởng phòng khoáng sản của Sở TNMT, phát biểu |
Về sản lượng tài nguyên thực tế khai thác, theo quy định như dự luật thì sẽ gây thất thu cho ngân sách vì trên thực tế không một nguời (đơn vị) nộp thuế nào kê khai đúng sản lượng khai thác, do vậy đề nghị Chính phủ giao cho Bộ tài nguyên ban hành một bộ định mức tài nguyên khoáng sản khai thác và phải có một quy định đồng nhất về các kê khai, không nên để như hiện nay, các đơn vị khác nhau đều có cách kê khai khác nhau mà vẫn được ngành thuế chấp nhận. Đối với quy định về miễn giám thuế, nên đưa vào khoản 2 của Điều 10 của dự thảo là miễn thuế cho hoạt động khai thác thủy sản xa bờ, thay vì tính trong thời gian 5 năm và giảm 50% sau đó; đối với khoản 3 của Điều 10 dự thảo Luật, cần ghi rõ đối tượng cá nhân này thực tế là thu gom, chứ không phải khai thác, do vậy cần ghi lại nội dung tại khỏan này cho phù hợp với thực tế và dễ thực hiện, vì vừa miễn lại vừa tính thuế đối với sản phẩm gỗ, cành, củi, tre, nứu, mai, giang...rất dễ xảy ra lách Luật hoặc bỏ sót đối tượng chịu thuế.
Nguyễn Thị Phi