|
ĐBQH Trương Văn Vở- Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai, chủ trì hội nghị lấy ý kiến đóng góp dự thảo luật thuế BVMT |
Sáng ngày 30 tháng 8 năm 2010, Đoàn ĐBQH tỉnh vừa tổ chức lấy ý kiến đóng góp dự thảo luật thuế bảo vệ môi trường. Cuộc họp do ông Trương Văn Vở-Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh chủ trì. Tham dự có bà Quách Ngọc Lan-Trưởng Ban KTNS HĐND tỉnh, ông Nguyễn Văn Hùng-Trưởng Ban VHXH HĐND tỉnh, ông Huỳnh Minh Thiện-Phó Giám đốc Sở Tư pháp, ông Phan Văn Hết-Phó Giám đốc Sở TN&MT cùng đại diện lãnh đạo các đơn vị: Cục thuế, Công Thương, Tài chính, Nông nghiệp&PTNT, Văn phòng ĐĐBQH&HĐND tỉnh.
Dự thảo luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT) gồm 4 chương, 13 điều, Quy định cụ thể đối tượng chịu thuế, các căn cứ cụ thể để tính và khai thuế, nộp và hoàn thuế. Trong đó, dự thảo nêu rõ khái niệm thuế BVMT là thuế gián thu, thu vào một số sản phẩm hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường. Khái niệm này được đề cập để tránh nhầm lẫn với phí BVMT là phí áp dụng cho các chất thải gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Luật thuế được ban hành nhằm mục tiêu điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng để hạn chế sử dụng các sản phẩm không thân thiện với môi trường. Quan điểm đóng góp đề án là phải đặt trọng tâm đánh giá dự thảo có đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đảm bảo đó là tiêu chí phát triển kinh tế bền vững. vì thời gian tới, nền kinh tế của nước ta phải phát triển đi vào chiều sâu, tăng trưởng bền vững, vì vậy tất yếu sẽ phát sinh các vấn đề xã hội liên quan đến môi trường. Bên cạnh đó, phải bảo đảm khi ban hành, luật này góp phần huy động hợp lý nguồn thu cho ngân sách nhà nước phục vụ cho việc khắc phục sự cố môi trường.
Đóng góp dự thảo luật, nhiều đại biểu tập trung vào đối tượng chịu thuế vì cho rằng, đây là điểm quan trọng nhất cần thảo luận, phản biện thêm. Theo dự thảo, có 5 nhóm hàng hóa thuộc đối tượng chịu thế, đó là xăng dầu; than; dung dịch HCFC; túi nhựa xốp; thuốc BVTV thuộc nhóm hạn chế sử dụng. Theo nhiều đại biểu, trong nhóm hàng hóa nêu trên, đối với xăng dầu và than đã chịu phí BVMT rồi (phí BVMT được áp cho các loại chất thải gây tác động xấu đến môi trường, đây là đặc điểm để phân biệt thuế với phí), như vậy nếu đưa hai nhóm sản phẩm này vào đối tượng chịu thuế thì phải được miễn phí BVMT, vì đây là những sản phẩm tác động trực tiếp lên đời sống và sản xuất của nhân dân, nếu để các sản phẩm này chịu nhiều loại thuế, phí thì tất cả gánh nặng đó sẽ đổ lên người tiêu dùng. Ngoài ra, không chỉ 5 nhóm hàng hóa trên mà còn nhiều nhóm, loại hàng hóa khác gây tác động xấu đến môi trường. Cụ thể đề nghị đưa thêm một số đối tượng gồm: hạt NIX (bụi xỉ đồng sinh ra từ công nghệ đóng tàu), mặt hàng thuốc lá, pin/acquy vào đối tượng chịu thuế.
Một nội dung quan trọng khác mà nhiều đại biểu quan tâm, đó là việc dự thảo lần này đề nghị biểu khung thuế tính trên mức thuế tuyệt đối ( mức thuế bằng tiền đồng trên một đơn vị hàng hóa), thay vì thuế suất (tỉ lệ phần trăm trên giá trị của đối tượng tính thuế) như những luật thế khác. Mức thuế tuyệt đối được đề ra thông qua một khung quá rộng ( ví dụ túi nilông có khung thuế từ 30.000 đến 50.000đ/kg). Đây là luật duy nhất trong nhóm luật thuế đề nghị mức thuế tuyệt đối, lý do để cơ quan soạn thảo bảo vệ quan điểm này, cho rằng việc này phù hợp với kinh nghiệm quốc tế trong thu thuế BVMT, là thích hợp với nước ta vì cũng đang trong lộ trình hội nhập. Tuy nhiên, nhiều đại biểu cho rằng, đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam còn chứa đựng nguy cơ bất ổn định về giá, như vậy khi giá tăng sẽ gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, khung thuế quá rộng đề nghị Chính phủ quy định chi tiết sẽ gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện luật thuế. Các đại biểu cho rằng, nếu đứng trên quan điểm là luật pháp khi ban hành phải theo xu hướng ổn định lâu dài, càng cụ thể dàng dễ triển khai thực hiện. Chính vì vậy, hội nghị thống nhất đề nghị, thay thế mức thu tuyệt đối bằng thuế suất như các luật thuế khác.
Kim Chung