Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Kế hoạch số 97-KH/TU của Tỉnh ủy, Kế hoạch số 60-KH/HU của Huyện ủy về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, thời gian qua huyện đã tập trung chỉ đạo quy hoạch vùng phát triển nông nghiệp, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; trên cơ sở đó các xã, thị trấn cùng UBND huyện, các ngành liên quan triển khai thực hiện các giải pháp để đầu tư phát triển theo đúng quy hoạch, phát huy tiềm năng và lợi thế của từng vùng. Theo đó, cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện năm 2010 tiếp tục chuyển dịch đúng hướng; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 3.221,3 tỷ đồng, đạt 102% kế hoạch và tăng 7,8% so cùng kỳ năm trước; giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp (theo giá hiện hành) đạt 57,7 triệu đồng. Công tác khuyến nông, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được chú trọng, nâng cao nâng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường. Đã thực hiện tập huấn kỹ thuật cho trên 2.599 lượt người, hội thảo đầu bờ cho 2.704 lượt người, thực hiện 6 điểm trình diễn. Công tác chuyển dịch cơ cấu mùa vụ luôn được chú trọng, đến nay huyện có nhiều vùng có giá trị sản xuất từ 100-300 triệu/ha/năm (vùng 400 ha bắp, lúa tại xã Lang Minh, 123 ha tại Suối Cát và 450 ha tại Xuân Phú; 590 ha tiêu tại Suối Cao, Xuân Thọ; 150 ha xoài tại Xuân Hưng và 270 ha rau tại Xuân Phú, Xuân Bắc, Xuân Hiệp). Một số mô hình thâm canh cây bắp, cây lúa đã được chuyển giao cho nông dân, đến nay việc ứng dụng trồng mô hình hàng kép đã đạt 80% diện tích bắp gieo trồng toàn huyện và 100% diện tích lúa 1 vụ đã được thay thế bằng lúa 2 vụ với các giống mới có năng suất cao, kháng sâu bệnh. 638,5 ha đất sản xuất trên địa bàn có sử dụng hệ thống tưới tiết kiệm và bón phân qua đường ống; 100% trang trại chăn nuôi và 60% hộ chăn nuôi nhỏ lẻ đã sử dụng hầm biogas. Toàn huyện có 814 trang trại, 23 HTX, 259 CLB Năng suất cao và 15 Liên hiệp CLBNSC. Nhìn chung hoạt động của các trang trại, các loại hình kinh tế tập thể trên địa bàn hoạt động khá tốt, có nhiều đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội, huyện đã thực hiện đầu tư nhựa hóa 57,6% đường giao thông liên xã, thôn, ấp; thi công 21.756 mét đường dây trung thế và 31.045 mét đường dây hạ thế, nâng tỷ lệ hộ sử dụng điện trên địa bàn là 99,89%; hoàn thành 14 công trình đường dây hạ thế và 01 trạm biến áp phục vụ điện cho sản xuất…
Đồng thời đời sống vật chất, văn hóa tinh thần, an sinh xã hội của nhân dân trên địa bàn cũng được cải thiện rõ nét: số hộ giàu, khá tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể; 15/15 trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia; 10/15 xã có 14 công trình thiết chế văn hóa, tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh đạt 95,68%. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được giữ vững ổn định; môi trường sinh thái nông thôn cũng được quan tâm, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chương trình nông thôn mới trên địa bàn, huyện còn gặp một số hạn chế như: việc nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả ở một số xã thực hiện chưa đạt hiệu quả cao; tiến độ thực hiện một số công trình xây dựng cơ bản, chương trình kiên cố hóa trường lớp, nhất là chương trình xã hội hóa giao thông nông thôn còn chậm; nguồn vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội còn hạn chế; công tác đào tạo nghề cho nông dân tuy có quan tâm chỉ đạo nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường…
Trong kế hoạch năm 2011, huyện tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Đề án nông thôn mới đối với 05 xã điểm (Xuân Định, Xuân Phú, Bảo Hòa, Xuân Thọ và Suối Cao). Tổ chức lồng ghép và thực hiện có hiệu quả các chương trình; phấn đấu thực hiện đạt 4 mục tiêu trong sản xuất nông nghiệp là sản xuất hàng hóa lớn, năng suất, chất lượng và thu nhập cao; tích cực huy động các nguồn xã hội hóa để đầu tư cho các mục tiêu nông thôn mới; hỗ trợ, hướng dẫn các địa phương thực hiện xây dựng nông thôn mới với quan điểm “kết hợp có hiệu quả và hợp lý các nguồn lực ở địa phương, đặc biệt là nguồn nội lực trong nhân dân với nguồn lực của Nhà nước trong quá trình thực hiện”.
Thùy Trang