Trong đó, tại cấp tỉnh
đã ban hành quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất đối với 708 trường hợp, với tổng diện tích 5.967,79 ha và 26.300 trường hợp
với tổng diện tích 954,3ha tại cấp huyện (kèm
theo phụ lục 2.1 và 2.2).
Đánh giá kết quả đạt
được và những tồn tại, vướng mắc và nguyên
nhân trong quá trình thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất cho thấy, việc thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất trên địa bàn theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Qua đó, quỹ
đất được khai thác hiệu quả, hợp lý, đảm bảo phục vụ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên địa bàn.
Luật Đất đai
2013 quy định rõ ràng các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và
điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Quy định này đã khắc phục
việc giao đất, cho thuê đất một cách tràn lan, chưa tính đến năng lực của các
chủ đầu tư trong việc triển khai các dự án gây nên tình trạng sử dụng đất lãng
phí, kém hiệu quả như trước đây.
Chuyển mục đích sử dụng đất lúa phải tuân thủ quy định chặt chẽ
Đối với các trường hợp
có chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc
dụng sang các mục đích khác được thực hiện trên cơ sở có văn bản chấp thuận của
Thủ tướng Chính phủ (đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10ha đất
trồng lúa hoặc từ 20ha đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng trở lên) và Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng dưới
10ha đất trồng lúa; dưới 20ha đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng) đã góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tránh việc chuyển mục đích sử dụng đất tràn lan.
Công
tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất vẫn còn những khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện, cụ thể: Việc chuyển đổi mục đích từ đất trồng
lúa sang các mục đích khác rất phức tạp, kéo dài (phải phù hợp với quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất hàng năm; đảm bảo điều kiện giao đất, cho thuê đất; lập
thủ tục trình các cấp có thẩm quyền như thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh, trình
Thủ tướng Chính phủ...) dẫn đến việc chuyển đổi rất chậm, khó khăn ảnh hưởng
đến tiến độ thực hiện dự án. Mặt khác, Luật Đất đai không quy định diện tích
tối đa hộ gia đình, cá nhân được phép chuyển mục đích sử dụng sang đất ở, dẫn
tới tình trạng lợi dụng quy định chuyển mục đích sử dụng đất để phân lô, bán
nền. Vẫn còn tình trạng dự án đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
nhưng chậm đưa đất vào sử dụng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, gây lãng
phí đất đai.
Nhiều
nội dung quy định của pháp luật đất đai liên quan đến công tác giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất chưa rõ ràng nên khó khăn trong quá trình
áp dụng pháp luật (loại dự án như thế nào thì nhà nước giao đất, cho thuê đất
theo hình thức đấu giá, loại nào được giao đất, thuê đất theo hình thức không
đấu giá không được quy định cụ thể,…). Chưa có quy định cụ thể của Luật Đất đai
để xử lý đối với dự án có một phần diện tích đất công do nhà nước quản lý (gồm
đất công do UBND cấp xã quản lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Luật đất đai
và đất do các tổ chức của nhà nước quản lý, sử dụng), phần diện tích đất công
này có thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Quản lý tài sản công hay không chưa
được làm rõ.
Việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án xây
dựng Khu đô thị mới, chỉnh trang đô thị thuộc diện thu hồi đất theo quy định
tại Điều 62 Luật Đất đai còn gặp vướng mắc, cụ thể:
Theo quy định tại điểm đ
khoản 4 Điều 9 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP,
Sở Tài nguyên và Môi trường có
trách nhiệm tổng hợp danh mục dự án cần thu hồi đất quy định tại khoản 3 Điều
62 của Luật Đất đai để báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh thông qua đồng thời với quyết định mức vốn ngân sách nhà nước cấp cho
việc bồi thường, giải phóng mặt bằng tại kỳ họp cuối năm của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh. Theo quy định tại điểm b khoản 6 Điều 67 Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT
ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì căn cứ để đưa vào kế hoạch
sử dụng đất là: Các dự án
quy định tại Khoản 3 Điều 62 của Luật Đất đai và đã được
ghi vốn
thực hiện trong năm kế hoạch đối với các dự án thực hiện bằng ngân sách nhà nước; có văn bản
chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
các dự án còn lại. Thực hiện theo hướng dẫn trên,
các dự án quy định tại điểm d khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 (các dự án
khu dân cư) đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp quyết định chủ trương
đầu tư và UBND các huyện, thành phố đưa vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm, Sở
Tài nguyên và Môi trường đã tổng hợp danh mục các dự án cần thu hồi đất báo cáo
UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua trước khi phê duyệt kế hoạch
sử dụng đất hàng năm cấp huyện theo quy định. Trên cơ sở đó, UBND cấp huyện
thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng theo quy định
(toàn bộ nguồn kinh phí bồi thường đều do chủ đầu tư tạm ứng để chi trả). Tuy nhiên,
khi thực hiện việc giao đất phát sinh vướng mắc do trường hợp giao đất thực
hiện dự án phát triển nhà ở phải thông qua đấu giá theo quy định tại Điều 118
Luật Đất đai.
Về hình thức thuê đất:
Theo quy định tại Điều 56 và Điều 172 Luật Đất đai quy định người sử dụng đất
với hình thức thuê đất theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 được quyền lựa chọn
hình thức trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần. Tuy nhiên,
ngày 4 tháng 6 năm 2019, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 82/2019/QH14, trong đó
có nội dung “Nghiên cứu thu hẹp các
trường hợp cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, chuyển
sang hình thức cho thuê đất thu tiền thuê đất hằng năm, bảo đảm nguồn thu ổn
định từ đất đai.” Đến nay, chưa có quy định của pháp luật để xác định
trường hợp được thuê đất trả tiền hàng năm, trường hợp được thuê đất trả tiền
một lần cho cả thời gian thuê.
Nguyễn Thị Oanh