Liên kết website


Specified argument was out of the range of valid values.

Trao Đổi TT Với Cử Tri

Từ điển trực tuyến

Tra từ:
Từ điển:

Hình ảnh hoạt động

Hộp Mail

Trang chủBản tin HĐND số 27-tháng 08+09.2006

CHÍNH SÁCH MỚI

Đăng ngày: 24/11/2006
CHÍNH SÁCH MỚI
TIN 1: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Ngày 07/8/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 27/2006/CT-TTg về một số giải pháp cần tập trung chỉ đạo trong những tháng cuối năm để phấn đấu hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2006.

Thủ tướng chỉ thị: cần tập trung thực hiện để tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nhất là những vướng mắc về thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, thuế, xuất nhập khẩu, điều kiện tiếp cận vay vốn cho sản xuất, kinh doanh, giải ngân, thanh quyết toán khối lượng xây dựng công trình; cụ thể hoá các giải pháp và nội dung thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa các lĩnh vực văn hóa, xã hội; chấn chỉnh bộ máy hành chính và đẩy mạnh việc phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...

Đẩy nhanh việc thực hiện các chương trình, kế hoạch sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được phê duyệt; nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước sau khi đã cổ phần hoá, các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên…

Khẩn trương triển khai các giải pháp cần thiết để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, chú ý phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, vận tải, bưu chính - viễn thông, tư vấn pháp lý...

Các cơ quan chức năng công bố công khai, minh bạch các quy định về thủ tục, giấy tờ cần thiết đối với từng thủ tục hành chính trên các phương tiện thông tin đại chúng và nơi công sở để làm căn cứ cho nhân dân thực hiện và giám sát…


TIN 2: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (*)

Theo Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ban hành ngày 02/8/2006, Chính phủ quy định: người phải thi hành án có hành vi cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của cơ quan thi hành án, quyết định của Tòa án hoặc đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ 2 nhưng không đến địa điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng sẽ bị phạt tiền từ 50.000 đến 200.000 đồng...

Nếu người phải thi hành án có các hành vi như: sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc thay đổi tình trạng tài sản đã kê biên; phá hủy niêm phong hoặc hủy hoại tài sản đã kê biên thì có thể bị phạt tiền từ 500.000 đến 1 triệu đồng…

 Đối với vi phạm trong hoạt động công chứng, chứng thực: phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng đối với hành vi tự ý sửa chữa hoặc tẩy xóa làm sai lệch nội dung của bản chính để làm thủ tục yêu cầu công chứng, chứng thực…

Nếu dùng giấy tờ giả hoặc dùng các thủ đoạn gian dối khác để làm thủ tục công chứng, chứng thực sẽ bị phạt từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng…

Nghị định quy định rõ phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đến 100.000 đồng đối với người có trách nhiệm phải đăng ký khai sinh cho trẻ em không thực hiện việc đăng ký trong thời hạn do pháp luật định; phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 đồng đối với hành vi gian dối khi đăng ký kết hôn…

Đối với vi phạm trong hoạt động hành nghề luật sư. Nghị định quy định rõ: Phạt tiền từ 1 đến 3 triệu đồng đối với hành vi cho người khác sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc Giấy phép hành nghề tại Việt Nam để hành nghề luật sư…

Mức phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng được áp dụng đối với các vi phạm: cá nhân, tổ chức không đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật mà hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào; thông đồng, dìm giá trong quá trình tham gia đấu giá…

Đối với văn phòng con nuôi nước ngoài thực hiện các hoạt động khi giấy phép đã quá hạn hoặc chưa được cấp giấy phép đã hoạt động; thực hiện hoạt động về nuôi con nhằm mục đích vụ lợi sẽ bị áp dụng mức phạt tiền từ 15 đến 20 triệu đồng...

Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 3: Hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục (*):

 Ngày 02/8/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục.

Theo đó, chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục là mức tối thiểu về kiến thức, kỹ năng mà người học phải đạt được sau khi kết thúc một chương trình giáo dục. Chuẩn kiến thức, kỹ năng trong chương trình giáo dục là căn cứ chủ yếu để biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, đánh giá kết quả học tập của người học…

Việc đánh giá kết quả học tập, công nhận người học hoàn thành chương trình môn học, cấp học hoặc trình độ đào tạo bằng hình thức kiểm tra, thi kết thúc môn học, thi tốt nghiệp hoặc xét tốt nghiệp; kết quả kiểm tra, thi là một căn cứ chủ yếu giúp nhà trường và các cấp quản lý giáo dục đánh giá chất lượng giáo dục. Việc công nhận tốt nghiệp một cấp học hoặc một trình độ đào tạo được thực hiện bằng: xét tốt nghiệp đối với trung học cơ sở; thi tốt nghiệp đối với trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng; thi tốt nghiệp hoặc bảo vệ đồ án, khóa luận tốt nghiệp đối với trình độ đại học; bảo vệ luận văn đối với trình độ thạc sĩ; bảo vệ luận án đối với trình độ tiến sĩ…

Nghị định cũng nêu rõ: quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục phải đảm bảo các nguyên tắc: phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành, của từng vùng, quy hoạch phát triển của từng địa phương; bảo đảm tính đa dạng, đồng bộ của hệ thống giáo dục, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, với sản xuất và dịch vụ; tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ chủ yếu, các cơ sở giáo dục trọng điểm và các ngành trọng điểm, các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng đặc biệt khó khăn...

Học sinh, sinh viên được hưởng chế độ miễn, giảm phí khi sử dụng các dịch vụ công về giao thông, giải trí, khi tham quan viện bảo tàng, di tích lịch sử, công trình văn hóa theo quy định…

Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 4: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực dạy nghề

Theo Nghị định số 73/2006/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/2006, Chính phủ quy định: với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dạy nghề, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu hình thức xử phạt là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức đó có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khắc phục hậu quả...

Cụ thể: hành vi mở cơ sở dạy nghề không đúng với quy định của nội dung quyết định thành lập, quyết định cho phép thành lập; Báo cáo sai các điều kiện để được thành lập hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; Mua bán, chuyển nhượng, thuê, cho thuê, mượn, cho mượn quyết định thành lập, quyết định cho phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký hoạt động… có thể bị phạt từ 05 đến 10 triệu đồng…

Phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Tổ chức đào tạo nghề khi chưa có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề; Đào tạo và cấp bằng nghề cao hơn trình độ đào tạo được cơ quan có thẩm quyền cho phép; Đào tạo các ngành, nghề chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép…

Phạt tiền từ 15 đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, truyền nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép buộc người học nghề, tập nghề vào những hoạt động trái pháp luật quy định…

Với các vi phạm quy định về thành lập và đăng ký hoạt động dạy nghề, phạt tiền từ 01 - 40 triệu đồng; vi phạm quy định về hoạt động của cơ sở dạy nghề, phạt tiền từ 5 - 30 triệu đồng; vi phạm về chương trình, nội dung và kế hoạch đào tạo, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 0,2 - 5 triệu đồng…

Tước quyền sử dụng không thời hạn quyết định thành lập, quyết định cho phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký hoạt động là hình thức xử phạt bổ sung cao nhất đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực dạy nghề…

Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 5: Xử lý vi phạm lĩnh vực xuất khẩu lao động

Ngày 4/8/2006, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân tối cao và Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 09/2006/TTLT/BLĐTBXH-BCA-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động ở nước ngoài.

Theo đó, người đi làm việc ở nước ngoài tự phá hợp đồng, trốn ra ngoài hoặc ở lại sau khi đã kết thúc hợp đồng lao động sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm; phạt tiền từ 5 đến 50 triệu đồng…

Hình thức phạt tù và phạt tiền sẽ chỉ được áp dụng khi lao động không chấp hành quyết định xử phạt hành chính trước đó của cơ quan quản lý nhà nước và không chịu về nước. Trường hợp đã chấp hành quyết định xử phạt hành chính, đã về nước, nhưng chưa đầy 1 năm sau lại xuất khẩu và bỏ trốn thì vẫn bị xử lý hình sự…

Mức phạt tù từ 2 đến 7 năm áp dụng đối với người tổ chức, cưỡng ép người khác trốn hoặc ở lại nước ngoài trái phép. Trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (tổ chức, cưỡng ép từ 16 người trở lên; thu lợi bất chính từ hành vi này trên 300 triệu đồng, làm cho nước tiếp nhận lao động ngưng hợp tác) sẽ bị phạt tù 12 - 20 năm…

Cục Quản lý lao động ngoài nước thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội sẽ có trách nhiệm thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm và làm văn bản kiến nghị cơ quan công an cấp tỉnh khởi tố lao động. Văn bản này phải được gửi cho Viện KSND và Tòa án nhân dân cấp tỉnh…

Thông tư liên tịch này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 6: Ghi nợ và thu nợ tiền sử dụng đất (*)

Ngày 02/8/2006, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 70/2006/TT-BTC hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 117/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất.

Theo đó, hộ gia đình, cá nhân được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở hoặc chuyển từ đất nông nghiệp đã được quy hoạch khu dân cư sang sử dụng vào mục đích làm nhà ở phải nộp tiền sử dụng đất và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp GCN mà phải nộp tiền sử dụng đất nhưng do có khó khăn về đời sống chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất thì được ghi nợ tiền sử dụng đất phải nộp trên GCN...

Để được ghi nợ trên GCN, hộ gia đình, cá nhân chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất phải làm đơn nêu rõ lý do chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất gửi UBND xã, phường, thị trấn nơi người sử dụng đất được chuyển mục đích sử dụng đất, được cấp GCN xác nhận. Việc ghi nợ tiền sử dụng đất không áp dụng đối với trường hợp giao đất mới kể cả hình thức đấu giá hoặc không đấu giá quyền sử dụng đất...

Trường hợp khi Nhà nước cho thuê đất mà người thuê đất đã ứng trước tiền để chi trả bồi thường đất, hỗ trợ đất; khi chuyển từ thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng đất thì được trừ tiền bồi thường đất, hỗ trợ đất vào tiền sử dụng đất phải nộp; số tiền được trừ là tiền bồi thường đất, hỗ trợ đất chưa được trừ vào tiền thuê đất của phần diện tích được chuyển từ thuê đất sang giao đất, nhưng tối đa không vượt quá số tiền sử dụng đất phải nộp...

Đối với các tổ chức trong nước được giao đất theo các dự án đầu tư được duyệt để xây dựng khu nhà ở, khu dân cư, khu đô thị mới, hoặc xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê đã được UBND cấp tỉnh quyết định cho phép chậm nộp tiền sử dụng đất, sau thời hạn được phép chậm nộp tiền sử dụng đất mà chưa nộp hết tiền sử dụng đất thì số tiền sử dụng đất chưa nộp phải tính lại theo giá đất do UBND cấp tỉnh quyết định để thu tiền sử dụng đất theo quy định tại thời điểm nộp tiền sử dụng đất và nộp phạt...

Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 7: Ban hành Tiêu chuẩn Giám đốc Sở Tư pháp

Theo Quyết định số 07/2006/QĐ-BTP ban hành ngày 01/8/2006, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định: Giám đốc Sở Tư pháp ngoài nhiệm vụ phòng ngừa, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí còn phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí gây thiệt hại trong cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Sở Tư pháp theo quy định của pháp luật…

Giám đốc Sở Tư pháp phải: Đạt tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch chuyên viên chính trở lên; Tốt nghiệp đại học luật trở lên; Tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị; Tốt nghiệp quản lý hành chính nhà nước ngạch chuyên viên chính trở lên; Thành thạo một ngoại ngữ thông dụng từ trình độ C trở lên. Đối với tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, khuyến khích học và sử dụng được tiếng dân tộc thiểu số phục vụ công tác; Sử dụng thành thạo máy tính và các trang thiết bị văn phòng phục vụ cho công tác.

Bên cạnh đó phải có ít nhất 05 năm công tác trong Ngành Tư pháp, trong đó có 03 năm trở lên làm công tác quản lý nhà nước về công tác tư pháp; Tuổi bổ nhiệm lần đầu không quá 55 tuổi đối với nam và không quá 50 tuổi đối với nữ…

Quyết định này có sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

TIN 8: Quản lý việc cung cấp trò chơi trực tuyến

Ngày 01/8/2006, Bộ Bưu chính, Viễn thông đã ra Công văn số 1515/BBCVT-VT về việc hướng dẫn thực hiện Thông tư liên tịch về quản lý trò chơi trực tuyến.

Bộ Bưu chính, Viễn thông yêu cầu: Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến phải có hợp đồng rõ ràng, chi tiết với doanh nghiệp cho thuê máy chủ (hoặc vị trí đặt máy chủ), trong đó quy định rõ quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ, an toàn, an ninh, xử lý sự cố và phải có phương án dự phòng để đảm bảo an toàn cho hệ thống cung cấp dịch vụ khi có sự cố xảy ra…

Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyết phải chịu trách nhiệm trước người sử dụng dịch vụ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chất lượng dịch vụ và an toàn, an ninh thông tin trong hệ thống cung cấp dịch vụ của mình bao gồm thông tin về người sử dụng dịch vụ, thông tin trong trò chơi của người sử dụng dịch vụ và các thông tin cần thiết khác trong hoạt động cung cấp dịch vụ của mình…

Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến phải triển khai hệ thống máy chủ, phần mềm tại máy chủ, các trang thiết bị khác và giải pháp cần thiết để quản lý thông tin về người sử dụng dịch vụ đáp ứng các yêu cầu sau: Cập nhật liên tục, tức thì tên, địa chỉ, số và nơi cấp chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu của người sử dụng dịch vụ hoặc người bảo lãnh cho người sử dụng dịch vụ dưới 14 tuổi.; Quản lý, lưu trữ các thông tin về người sử dụng dịch vụ quy định tại điểm a và thời gian sử dụng dịch vụ của người sử dụng dịch vụ tại hệ thống máy chủ của doanh nghiệp ít nhất 30 ngày kể từ ngày sử dụng dịch vụ…

TIN 9: Bảo hiểm xã hội (*)

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11.

Luật quy định mức lương hưu được tính như sau: Người đủ 15 năm đóng BHXH được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Sau đó, cứ thêm mỗi năm tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, nhưng mức tối đa bằng 75%. Ngoài ra, người lao động đã đóng BHXH trên 30 năm đối với nam và 25 năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu trí thì còn được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp này được tính theo số năm đóng BHXH, kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và 26 năm trở đi đối với nữ. Theo đó, cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Riêng người lao động được hưởng BHXH một lần khi chưa đủ 20 năm đóng BHXH thì phải thuộc một trong các trường hợp sau: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 45 tuổi nhưng bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày, bệnh nan y trong thời gian bảo lưu BHXH; ra nước ngoài định cư…

Người đang hưởng lương hưu khi chết được trợ cấp mai táng. Khoản trợ cấp này tính bằng 10 tháng lương tối thiểu chung. Số đối tượng nêu trên, nếu có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần; hoặc người đang hưởng lương hưu thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Riêng thân nhân của người chết không có người trực tiếp nuôi dưỡng và không có nguồn thu nào khác được hưởng 70% mức lương tối thiểu chung. Trường hợp một người chết thì số thân nhân được hưởng trợ cấp hàng tháng không quá 4 người; trường hợp hai người chết trở lên thì thân nhân của cả những người này được hưởng hai lần mức trợ cấp. Ngoài ra, còn có trường hợp được hưởng trợ cấp tuất một lần. Mức trợ cấp tuất một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH. Riêng người đang hưởng lương hưu mà chết thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tuất một lần, tính theo thời gian đã hưởng lương hưu; nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó thì cứ hưởng thêm một tháng lương hưu nhưng mức trợ cấp giảm đi 0,5%/tháng lương hưu…

Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, trừ những người là cán bộ, công chức, viên chức... Khi tham gia BHXH tự nguyện, người lao động đóng bằng 16% mức thu nhập hàng tháng tính theo mức thu nhập thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung. Từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần, mức đóng tăng thêm 1% cho đến khi đạt tỷ lệ đóng là 22%...

Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội; Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp... Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng liền kề trước khi thất nghiệp...

Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì từ ngày 01/01/2008, đối với bảo hiểm thất nghiệp thì từ ngày 01/01/2009.

TIN 10: Luật Chứng khoán

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11.
Theo đó, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư phát triển. Đồng thời, Nhà nước có chính sách quản lý, giám sát bảo đảm TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả. Luật cũng qui định điều kiện doanh nghiệp được phép chào bán cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quĩ ra công chúng…

Mệnh giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ chào bán lần đầu ra công chúng là 10.000 đồng. Mệnh giá của trái phiếu chào bán ra công chúng là 100.000 đồng và bội số của 100.000 đồng...

Trong thời gian UBCK Nhà nước xem xét hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành và tổ chức, cá nhân có liên quan chỉ được sử dụng trung thực và chính xác các thông tin trong Bản cáo bạch đã gửi UBCK Nhà nước để thăm dò thị trường, trong đó phải nêu rõ các thông tin về ngày phát hành và giá bán chứng khoán là thông tin dự kiến. Việc thăm dò thị trường không được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng…

Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân phối chứng khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày; thời hạn này phải được ghi trong Bản thông báo phát hành…

Trường hợp số lượng chứng khoán đăng ký mua vượt quá số lượng chứng khoán được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng nhà đầu tư…

Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ bị cảnh báo trong trường hợp vốn khả dụng giảm xuống dưới 120% và phải khắc phục tình trạng này trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bị cảnh báo…

Công ty đầu tư chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần phải có vốn tối thiểu là 50 tỷ đồng. Toàn bộ tiền và tài sản của công ty đầu tư chứng khoán phải được lưu ký tại một ngân hàng giám sát…

Do Luật Chứng khoán ra đời muộn hơn thị trường chứng khoán tập trung tới hơn 5 năm và ban hành sau rất nhiều văn bản pháp quy khác nên Luật đã dành hẳn một điều khoản quy định áp dụng đối với các tổ chức hoạt động trước thời điểm 01/01/12007 (ngày Luật có hiệu lực) như sau: Văn phòng đại diện của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài đã hoạt động theo Giấy phép thành lập văn phòng đại diện không do UBCK Nhà nước cấp phải làm thủ tục đăng ký lại với UBCK Nhà nước; Công ty chứng khoán đang thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, phải thực hiện thủ tục đổi lại Giấy phép thành lập và hoạt động trong thời hạn một năm…
   TIN 11: Trợ giúp pháp lý (*)

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11.

Theo đó, người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn là những đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí. Những vụ việc trợ giúp pháp lý phải liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại…
Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý gồm trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp.

Đối với vụ việc đơn giản, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải tư vấn ngay và ghi chép những nội dung chính trong phiếu thực hiện trợ giúp pháp lý. Phiếu thực hiện trợ giúp pháp lý được lập thành hai bản, một bản giao cho người được trợ giúp pháp lý, một bản được lưu giữ trong hồ sơ vụ việc. Đối với vụ việc phức tạp, cần có thời gian nghiên cứu, xác minh hoặc vụ việc thiếu những giấy tờ, tài liệu có liên quan thì người thực hiện trợ giúp pháp lý phải viết phiếu hẹn hoặc yêu cầu bổ sung các giấy tờ, tài liệu còn thiếu. Trong thời hạn không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ việc hoặc nhận đủ các giấy tờ, tài liệu cần bổ sung, người thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời bằng văn bản cho người được trợ giúp pháp lý; trong trường hợp vụ việc cần có thời gian để xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày...

Trong trường hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý phải từ chối hoặc không được tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử người khác thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc người thực hiện trợ giúp pháp lý hướng dẫn, giới thiệu người được trợ giúp pháp lý đến người thực hiện trợ giúp pháp lý khác để được trợ giúp pháp lý. Trường hợp từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý phải thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người được trợ giúp pháp lý...

Luật này có hiệu lực kể ngày 01/01/2007.

TIN 12: Tiêu chuẩn kỹ thuật

Ngày 29/6/2006, Qýôc hội đã thông qua Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn ký thuật số 68/2006/QH11. Luật gồm có 7 Chương, với 71 Điều quy định hoạt động xây dựng, công bố và áp dụng tiêu chuẩn; xây dựng, ban hành và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật; đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Điều đáng chú ý là Luật này không chỉ áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam mà còn áp dụng đói với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hoạt động liên quan đến tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật tại Việt Nam…

Nguyên tắc cơ bản của hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế; Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, vệ sinh, sức khoẻ con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, bảo vệ động vật, thực vật, môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; Hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo đảm công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại. Việc xây dựng tiêu chuẩn phải bảo đảm sự tham gia và đồng thuận của các bên có liên quan...

Việc xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phải: Dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ, kinh nghiệm thực tiễn, nhu cầu hiện tại và xu hướng phát triển kinh tế - xã hội; Sử dụng tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn nước ngoài làm cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, trừ trường hợp các tiêu chuẩn đó không phù hợp với đặc điểm về địa lý, khí hậu, kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam hoặc ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia; Ưu tiên quy định các yêu cầu về tính năng sử dụng sản phẩm, hàng hóa; hạn chế quy định các yêu cầu mang tính mô tả hoặc thiết kế chi tiết; Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tiêu chuẩn và hệ thống quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam...

Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, đầu tư phát triển hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật tại Việt Nam, đào tạo kiến thức về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cho các ngành kinh tế - kỹ thuật...

Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 13: Luật Công nghệ thông tin

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11.
Luật quy định: Tổ chức, cá nhân khi thiết lập trang thông tin điện tử không sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam ''.vn'' phải thông báo với Bộ Bưu chính Viễn thông…

Các thông tin phải thông báo (có thể qua môi trường mạng): Tên tổ chức ghi trong quyết định thành lập, hoặc trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc trong giấy phép mở văn phòng đại diện; tên cá nhân; Số, ngày cấp, nơi cấp chứng minh thư nhân dân hoặc số, ngày cấp, nơi cấp hộ chiếu của cá nhân; Địa chỉ trụ sở chính của tổ chức hoặc nơi thường trú của cá nhân; Số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử; Các tên miền đã đăng ký…

Khi thiết lập trang thông tin điện tử, chủ sở hữu trang tin chỉ cần thông báo một số nội dung cơ bản và có thể gửi bằng thư điện tử hoặc bằng cách khác đến Bộ Bưu chính Viễn thông nhằm giúp cho việc thống kê và quản lý được thuận lợi. Việc thông báo này chỉ cần thực hiện một lần lúc đăng ký và thông báo lại nếu có thay đổi các thông tin cơ bản đã đăng ký…

Tổ chức, cá nhân không được che giấu tên của mình hoặc giả mạo tên của người khác khi gửi thông tin trên môi trường mạng. Khi gửi thông tin quảng cáo trên môi trường mạng phải đảm bảo cho người tiêu dùng khả năng từ chối nhận thông tin quảng cáo.

Tổ chức, cá nhân không được tiếp tục gửi thông tin quảng cáo trên môi trường mạng tới người tiêu dùng nếu người tiêu dùng đó đã thông bảo không đồng ý nhận thông tin quảng cáo. Nếu vi phạm, có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, gây thiệt hại phải bồi thường…

Luật Công nghệ thông tin có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 14: Luật Hàng không

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Hàng không dân dụng số 66/2006/QH11.

Luật quy định về hoạt động hàng không dân dụng, bao gồm các quy định về tàu bay, cảng hàng không, sân bay, nhân viên hàng không, hoạt động bay, vận chuyển hàng không, an ninh hàng không, trách nhiệm dân sự, hoạt động hàng không chung và các hoạt động khác có liên quan đến hàng không dân dụng.

Theo đó, người vận chuyển có trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra do vận chuyển chậm, trừ trường hợp chứng minh được mình, nhân viên đại lý của mình không thể áp dụng hoặc đã áp dụng mọi biện pháp để tránh…

Trong trường hợp hành khách đã được xác nhận chỗ trên chuyến bay nhưng việc vận chuyển bị gián đoạn, bị chậm mà không phải do lỗi của hành khách thì người vận chuyển phải thông báo kịp thời, xin lỗi hành khách, bảo đảm việc ăn, nghỉ, đi lại và chịu các chi phí có liên quan trực tiếp phù hợp với thời gian phải chờ đợi tại cảng hàng không…

Bên vận chuyển còn có trách nhiệm phải thu xếp hành trình phù hợp cho hành khách hoặc hoàn trả lại tiền phần vé chưa sử dụng theo yêu cầu của hành khách mà không được thu bất kỳ một khoản phí liên quan nào; phải trả một khoản tiền bồi thường ứng trước không hoàn lại cho hành khách…

Quyền vận chuyển hàng không nội địa do các hãng hàng không Việt Nam đảm nhiệm, chỉ trong một số trường hợp nhất định để phòng chống hoặc khắc phục thiên tai, dịch bệnh hoặc cứu trợ nhân đạo khẩn cấp mới có sự tham gia của các hãng hàng không nước ngoài…

Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng hàng không Việt Nam cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng không, khai thác đường bay đến các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa…

Luật Hàng không dân dụng có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 15: Luật về Luật sư (*)

Theo Luật về Luật sư số 65/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, Luật quy định: nghiêm cấm luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật; Cố ý cung cấp tài liệu vật chứng giả, sai sự thật, xúi giục người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trái pháp luật; Tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; Sách nhiễu, lừa dối khách hàng; Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ khách hàng ngoài khoản thù lao và chi phí đã thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng, cán bộ, công chức khác để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ việc; Lợi dụng việc hành nghề luật sư, danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân…

Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề luật sư tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà luật sư đó là thành viên. Trong trường hợp luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập một công ty luật thì có thể lựa chọn thành lập và đăng ký hoạt động tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà một trong các luật sư đó là thành viên...

Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn phòng và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn phòng...

Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 16: Phòng chống HIV/AIDS

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số 64/2006/QH11.

Luật quy định: không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ; tạo điều kiện để người nhiễm HIV và thành viên gia đình họ tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS…

Người nhiễm HIV có quyền: Học văn hoá, học nghề, làm việc; Được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS; Từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS trong giai đoạn cuối… Bên cạnh đó, họ phải có nghĩa vụ: Thực hiện các biện pháp phòng lây nhiễm HIV sang người khác; Thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng hoặc cho người chuẩn bị kết hôn với mình biết; Thực hiện các quy định về điều trị bằng thuốc kháng HIV…

Luật quy định các điều cấm sau: Cha, mẹ bỏ rơi con chưa thành niên nhiễm HIV; người giám hộ bỏ rơi người được mình giám hộ nhiễm HIV; Công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người đó; Bắt buộc xét nghiệm HIV; Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV; Từ chối mai táng, hoả táng người chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS...
Khuyến khích tự nguyện xét nghiệm HIV đối với người trước khi kết hôn, dự định có con, phụ nữ mang thai…

Người sử dụng lao động có các trách nhiệm: Bố trí công việc phù hợp với sức khỏe và trình độ chuyên môn của người lao động nhiễm HIV; Tạo điều kiện cho người lao động tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS; Không được có các hành vi sau: Chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc gây khó khăn trong quá trình làm việc của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV; Từ chối nâng lương, đề bạt hoặc không bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động vì lý do người lao động nhiễm HIV; Yêu cầu xét nghiệm HIV hoặc xuất trình kết quả xét nghiệm HIV đối với người dự tuyển lao động, từ chối tuyển dụng vì lý do người dự tuyển lao động nhiễm HIV…

Chỉ cơ sở xét nghiệm HIV đã được Bộ Y tế công nhận đủ điều kiện khẳng định các trường hợp HIV dương tính mới được quyền khẳng định các trường hợp HIV dương tính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả đó…

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007.

 

TIN 17: Luật Kinh doanh bất động sản (*)

Luật Kinh doanh bất động sản số 63/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 quy định: Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ định giá bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất hai người có chứng chỉ môi giới bất động sản, nếu có dịch vụ định giá bất động sản thì phải có ít nhất hai người có chứng chỉ định giá bất động sản. Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng ký kinh doanh và có chứng chỉ môi giới bất động sản...

Chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản và khách hàng được thỏa thuận trong hợp đồng về việc mua bán nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai theo hình thức ứng tiền trước và phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: Việc ứng tiền trước được thực hiện nhiều lần, lần đầu chỉ được thực hiện khi chủ đầu tư đã xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho bất động sản theo nội dung, tiến độ của dự án đã được phê duyệt, các lần huy động tiếp theo phù hợp với tiến độ thực hiện đầu tư tạo lập bất động sản; Trường hợp chủ đầu tư giao bất động sản chậm tiến độ ghi trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm với khách hàng theo hợp đồng và phải trả cho khách hàng một khoản tiền lãi của phần tiền ứng trước tính theo lãi suất vay ngân hàng thương mại tại thời điểm giao bất động sản tương ứng với thời gian chậm tiến độ...

Chủ đầu tư dự án khu đô thị mới, dự án khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp phải: Lập quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 của dự án và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng; Trực tiếp đầu tư xây dựng hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật đồng bộ và khớp nối với hệ thống hạ tầng khu vực xung quanh theo tiến độ thực hiện dự án; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng theo quy hoạch và nội dung của dự án đã được phê duyệt...Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 18: Luật Điện ảnh

Ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật Điện ảnh số 62/2006/QH11.

Theo đó, doanh nghiệp sản xuất phim, ngoài việc phải có các điều kiện thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp còn phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Bộ Văn hoá-Thông tin cấp. Điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh bao gồm: Có vốn pháp định; Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam...

Việc hợp tác, liên doanh để sản xuất phim với tổ chức, cá nhân nước ngoài, việc cung cấp dịch vụ sản xuất phim cho tổ chức, cá nhân nước ngoài phải được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép của doanh nghiệp sản xuất phim, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất phim bao gồm: Đơn đề nghị cấp giấy phép; Kịch bản văn học bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài...

Đối với phim đặt hàng sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải tuyển chọn kịch bản văn học trên cơ sở ý kiến của hội đồng thẩm định kịch bản văn học và chọn doanh nghiệp sản xuất phim theo quy định của Luật đấu thầu. Hội đồng thẩm định kịch bản văn học do chủ đầu tư dự án sản xuất phim thành lập có trách nhiệm thẩm định kịch bản văn học để tư vấn cho chủ đầu tư...

Tổ chức, cá nhân chỉ được bán, cho thuê phim nhựa, băng phim, đĩa phim đã có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về điện ảnh hoặc đã có quyết định phát sóng của Tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, Giám đốc đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh; băng phim, đĩa phim phải được dán nhãn kiểm soát của Bộ Văn hoá-Thông tin...

Doanh nghiệp phát hành phim, doanh nghiệp khác có đăng ký kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu phim phải có rạp chiếu phim để tham gia phổ biến phim. Doanh nghiệp sản xuất phim được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu phim và mỗi năm số lượng phim nhập khẩu không được vượt quá hai lần số lượng phim do doanh nghiệp sản xuất...

Hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim sử dụng thường xuyên mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hộ gia đình in sang, nhân bản, bán, cho thuê phim có quy mô nhỏ, sử dụng thường xuyên dưới mười lao động, thực hiện đăng ký kinh doanh và hoạt động...

Luật Điện ảnh có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007.

TIN 19: Giao dịch nhà ở đối với người Việt Nam ở nước ngoài (*)

Ngày 27/7/2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

Theo đó, tất cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam đều được phép xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở trước ngày 1/7/1991 (thời điểm trước khi có Pháp lệnh Nhà ở)…

Việt kiều có thể tiếp tục cho thuê cho mượn nhà tại Việt Nam, song phải có hợp đồng rõ ràng. Trường hợp muốn lấy lại nhà phải thông báo cho bên thuê, mượn trước 6-12 tháng. Cơ quan tổ chức phải trả lại nhà cho Việt kiều có thể thực hiện theo các phương thức: trả nhà ở đang quản lý sử dụng, trả bằng nhà ở khác, trả bằng tuền, nhà nước giao đất và họ không phải trả tiền sử dụng đất…

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được xác lập quyền sở hữu nhà ở khi có các giấy tờ: đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy tờ chứng minh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các hợp đồng cho thuê, mượn, giấy tờ thừa kế, sơ đồ nhà ở đất ở, hộ chiếu hợp lệ của Việt Nam hoặc của nước ngoài Trường hợp sử dụng hộ chiếu nước ngoài thì phải kèm theo giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận đăng ký kinh doanh...

Nghị quyết có hiệu lực từ 1/9/2006.

TIN 20: Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

Ngày 01/8/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 26/2006/CT-TTg về việc nghiêm cấm dùng công quỹ làm quà biếu và chiêu đãi khách sai quy định.

Thủ tướng chỉ thị: nghiêm cấm việc sử dụng công quỹ để thưởng, biếu, cho, tặng sai chế độ quy định của Nhà nước; nghiêm cấm việc nhận tiền, tài sản dưới các hình thức thưởng, biếu, cho, tặng sai chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng được pháp luật quy định. Các tổ chức, cá nhân khi được thưởng, biếu, cho, tặng sai quy định phải kiên quyết từ chối. Trường hợp không thể từ chối được, phải báo cáo với Thủ trưởng trực tiếp của mình và nộp lại tiền, hiện vật để trả lại hoặc xử lý theo quy định của pháp luật…
       Người quyết định việc sử dụng công quỹ để thưởng, biếu, cho, tặng sai chế độ phải bồi hoàn theo giá thị trường; cán bộ, công chức đưa, nhận quà biếu dù ở bất kỳ cương vị nào đều phải bị kiểm điểm xử lý kỷ luật; trường hợp có dấu hiệu tội phạm phải bị xử lý theo quy định của pháp luật…

Thủ tướng yêu cầu phải triệt để tiết kiệm trong việc tiếp khách, tổ chức hội nghị, khai trương, khởi công, khánh thành, tổng kết, mừng công, đón nhận danh hiệu... Việc tổ chức hội nghị, tiếp khách phải đơn giản, không phô trương hình thức; thành phần tham dự chỉ là những người trực tiếp liên quan. Nghiêm cấm việc sử dụng các loại rượu ngoại để chiêu đãi, tiếp khách. Mọi khoản chi cho những việc nêu trên phải đúng chế độ, tiêu chuẩn, đối tượng theo quy định và phải công khai, minh bạch trong cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị, tiếp khách phải trực tiếp chịu trách nhiệm nếu để xảy ra việc chi tiêu sai quy định…

Chỉ thị cũng nêu rõ, cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những vi phạm trong lĩnh vực này; đồng thời, không xét thi đua, khen thưởng và có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những cơ quan, đơn vị, cá nhân không tuân thủ nghiêm các quy định của Chỉ thị này.

 

TIN 21: Phân công nhiệm vụ

Ngày 28/7/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1009/QĐ-TTg về việc phân công công việc của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng.

Theo đó, Thủ tướng phân công Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng chỉ đạo, xử lý các công việc hàng ngày trong từng lĩnh vực công tác của Chính phủ ngoại trừ các công việc do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo. Phó Thủ tướng sử dụng quyền hạn của Thủ tướng để giải quyết các công việc thuộc phạm vi được phân công.

Trong phạm vi quyền hạn và nhiệm vụ được giao, các Phó Thủ tướng chủ động giải quyết công việc. Nếu có vấn đề liên quan đến lĩnh vực do Phó Thủ tướng khác phụ trách thì các Phó Thủ tướng chủ động phối hợp với nhau để giải quyết. Trường hợp các Phó Thủ tướng có ý kiến khác nhau thì Phó Thủ tướng đang phụ trách giải quyết công việc đó báo cáo Thủ tướng quyết định.

Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về các quyết định liên quan đến việc thực hiện các công việc được Thủ tướng phân công; báo cáo, xin ý kiến của Thủ tướng khi thấy cần thiết.

Trong trường hợp thấy cần thiết, hoặc khi Phó Thủ tướng vắng mặt thì Thủ tướng trực tiếp xử lý công việc đã phân công cho Phó Thủ tướng. Việc phân công công việc giữa các Phó Thủ tướng có thể thay đổi theo quyết định của Thủ tướng.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 28/7/2006.

 

TIN 22: Quản lý cảng biển và luồng hàng hải

Theo Nghị định số 71/2006/NĐ-CP ban hành ngày 25/7/2006, chính phủ quy định: kể từ ngày 14/8/2006, việc đầu tư xây dựng cảng biển, luồng hàng hải phải phù hợp với quy hoạch phát triển cảng biển đã được phê duyệt. Bộ Giao thông vận tải công bố công khai quy hoạch cảng biển đã được phê duyệt và quyết định điều chỉnh cụ thể đối với bến cảng, cầu cảng không trái với chức năng của cảng biển trong quy hoạch tổng thể đã được Thủ tướng phê duyệt…

Thủ tướng công bố hình thức đầu tư đối với cảng biển loại I và bến cảng đặc biệt quan trọng thuộc cảng biển loại I, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải công bố hình thức đầu tư đối với bến cảng thuộc cảng biển loại I và Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân cấp tỉnh công bố hình thức đầu tư đối với cảng biển loại II, bến cảng quan trọng thuộc cảng biển loại II…

Các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cảng biển thực hiện nhiệm vụ phải tuân theo quy định của pháp luật, không gây phiền hà, làm ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp cảng, chủ tàu, chủ hàng, tàu thuyền và các tổ chức, cá nhân khác trong cảng…

TIN 23: Thẩm định, cấp giấy phép đầu tư (*)

 Ngày 26/7/2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra Công văn số 5495/BKH-ĐTNN hướng dẫn tạm thời về đầu mối xử lý, trình tự, thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Theo đó, UBND cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo quy trình đăng ký đầu tư đối với dự án đầu tư nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế, có quy mô dưới 20 triệu đô la Mỹ hoặc 300 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện...

Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế tiếp tục thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với dự án đầu tư có quy mô dưới 40 triệu đô la Mỹ hoặc 600 tỷ đồng Việt Nam trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế, trừ các dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; đối với dự án có quy mô dưới 20 triệu đô la Mỹ hoặc 300 tỷ đồng Việt Nam, việc cấp chứng nhận đầu tư thực hiện theo quy trình đăng ký đầu tư...

Quy trình đăng ký cấp Giấy chứng nhận đầu tư thực hiện như sau: Nhà đầu tư nộp 01 bộ hồ sơ gốc tại Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc Ban quản lý; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư và sao gửi Giấy chứng nhận đầu tư đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, UBND cấp tỉnh, Ban quản lý có liên quan...

BAN BIÊN TẬP