Luật
đất phi nông nghiệp quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không thuộc diện
chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, đăng ký, khai, tính, nộp thuế,
miễn giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Hội nghị đã đóng góp các vấn đề còn
có ý kiến khác so với dự thảo, cụ thể nhất trí với việc ban hành Luật đất phi
nông nghiệp thay cho Pháp lệnh thuế nhà, đất được UBTVQH thông qua ngày
3/7/1992, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 1994, quy định điều tiết nguồn
thu đối với đất phi nông nghiệp. Trải qua 15 năm thực hiện, đến nay phát sinh
những bất cập trong quản lý, điều tiết sử dụng đất, nhiều quy định của pháp
lệnh đã không còn đáp ứng với thực tiễn, cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
Luật đất đai năm 2003; nguồn thu NSNN từ tính thuế chưa tương xứng với giá trị
đất đai; đặc biệt chưa thể hiện vai trò điều tiết, quản lý Nhà nước trong vận
hành nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành Luật thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế và những bất cập phát
sinh trong quản lý điều tiết việc quản lý đất, cũng như một số quy định của
pháp lệnh thuế nhà đất hiện không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn, cụ thể
như:
Về đối tượng
chịu thuế: Tại (điểm 2, 3 Điều 2) của dự thảo Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
quy định đất chịu thuế là đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp và các loại
đất phi nông nghiệp quy định tại (điều 3) sử dụng vào mục đích kinh doanh. Theo
quy định tại (điểm 2, Điều 2) của dự thảo thì nhóm đất sản xuất phi nông nghiệp
gồm: Đất xây dựng KCN; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh,
đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản, đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ
gốm. Như vậy, theo dự thảo thì việc quy định này là phù hợp với thực tế và khắc
phục được những tồn tại của pháp lệnh thuế nhà, đất (theo quy định của luật đất
đai năm 2003).
Ông Trương Văn Vở Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh
chủ
trì hội nghị
Tuy nhiên, theo dự thảo quy định thì các tổ chức cá
nhân khi sử dụng đất vào các mục đích trên đều phải chịu thuế, kể cả trường hợp
đất đó là đất của tổ chức cá nhân đi thuê (có thể thuê của Nhà nước, hoặc của
tổ chức, cá nhân có chức năng cho thuê). Như vậy nếu các tổ chức, cá nhân đi
thuê đất và sử dụng đất vào các mục đích trên vừa phải đóng tiền thuê đất, phải
đóng tiền thuế đất. Vì vậy cần xem xét lại nội dung này cho phù hợp. Diện tích
thuế và thuế suất theo dự án Luật diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực
tế đang sử dụng và thuế suất được áp dụng theo biểu lũy tiến từng phần tùy theo
diện tích trong hạn mức hay vượt hạn mức. Riêng về diện tích đất lấn chiếm
(không áp dụng hạn mức đất ở) áp dụng mức chung là 0, 15%. Theo dự thảo diện
tích đất tính thuế là diện tích đất thực
tế đang sử dụng (bao gồm cả đất lấn và chiếm). Như vậy, trong trường hợp nếu
đất đã có Giấy CNQSDĐ thì việc xác định diện tích đất lấn chiếm sẽ không khó,
tuy nhiên trong trường hợp đất chưa có giấy CNQSDĐ thì việc xác định diện tích
đất lấn chiếm sẽ rất khó khăn, và cơ quan nào sẽ có trách nhiệm xác định phần
diện tích đất này là đất lấn chiếm. Do đó cũng cần có quy định rõ. Có một số ý
kiến cho rằng diện tích đất lấn chiếm Nhà nước nên thu hồi lại không tính thuế,
vì tính thuế vô hình dung người sử dụng đất tưởng việc đất lấn chiếm được chấp
thuận bằng hình thức tính thuế.
Xoay quanh vấn đề đất sử dụng không đúng mục đích, đất
chưa sử dụng theo đúng quy định đang còn nhiều vấn đề cần quan tâm như: Theo dự
thảo, đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định áp
dụng mức thuế suất là 0,1%. Có nhiều ý kiến cho rằng cần quy định rõ căn cứ để
xem xét như thế nào là đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo
đúng quy định. Theo quy định tại Điều 38 Luật đất đai năm 2003 quy định về
trường hợp bị thu hồi thường đất: Đất nhà nước được giao, cho thuê để thực hiện
dự án đầu tư mà không được sử dụng trong 12 tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất
chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận được
bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định giao đất, cho thuê đất cho phép thì sẽ bị thu hồi. Như vậy, nếu căn cứ vào
quy định trên thì nếu đất không được sử dụng
trong 12 tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn 24 tháng so với
tiến độ ghi trong dự án đầu tư mà đã được cấp thẩm quyền cho phép thì có được
xem là đất chưa sử dụng theo đúng quy định không? Về trường hợp đất sử dụng
không đúng mục đích, hiện nay các nhà đầu tư thuê đất để thực hiện dự án xây
dựng nhà máy, nhưng trong đó có một phần diện tích đất xây dựng nhà ở cho
chuyên gia, hoặc nhà ở, ký túc xá cho công nhân thì phần diện tích đất này có
xem là phần diện tích đất sử dụng sai mục đích không?
Đối với giá tính thuế căn cứ theo diện tích đất tính
thuế và giá của 1m2 đất, trong đó: Giá của 1m2 đất được
sử dụng làm căn cứ theo diện tích đất tính thuế là giá trị đất theo mục đích
đất sử dụng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Đất ở nhà nhiều tầng,
nhiều hộ ở, nhà chung cư, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp: áp dụng mức
thuế suất là 0,03%. Theo dự thảo với mức thuế 0,03% áp dụng cho đất ở nhà nhiều
tầng, nhiều hộ ở, nhà chung cư là vừa phải, và người sở hữu diện tích đất trong
định mức sẽ phải chịu thuế suất là không quá nặng. Tuy nhiên với việc xác định
cách tính thuế trên sẽ làm người sử dụng đất phải tăng thêm số thuế phải nộp
theo pháp lệnh thuế nhà đất, vì giá đất được UBND tỉnh quy định hàng năm có sự
điều chỉnh theo hướng tăng, và mức giá đất ban hành hiện đang ở mức cao, ở vị
trí giá đất càng cao số thuế nộp tăng càng lớn. Việc đăng ký kê khai, tính nộp
thuế theo quy định tại dự thảo thì người nộp thuế kê khai tổng diện tích các
thửa đất ở có quyền sử dụng trong phạm vi toàn tỉnh, thành phố là hợp lý vì phù
hợp với quy định về hạn mức của từng địa phương.
Ngoài ra tại Hội nghị còn nhiều ý kiến cho rằng đối
tượng là các loại đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng
quy định áp dụng mức thuế suất là 0,1% là quá thấp cần phải nâng mức thuế suất
lên 1%. Mức thuế suất nâng cao như vậy sẽ hạn chế được tình trạng đầu cơ tích
trữ đất ở như hiện nay. Theo dự thảo giá tính thuế được ổn định theo chu kỳ 5
năm,vì hàng năm giá sẽ rất biến động. Tuy nhiên có hai luồng ý kiến khác nhau
về vấn đề này: có ý kiến cho rằng giá tính thuế cần ổn định trong vòng 5 năm,
nhưng có một số ý kiến cho rằng giá tính thuế nên áp dụng từng năm một vì giá
đất được ban hành hàng năm. Cần quy định cụ thể rõ ràng về đối tượng được miễn,
giảm thuế và chỉ được miễn giảm trong hạn mức quy định mà không được miễn giảm
ngoài hạn mức.
Nguyễn Hương (tổng hợp)