Công khai trên các trang thông tin điện tử việc lấy ý kiến, Dự thảo Luật xác định có 3 việc cần
lấy ý kiến, đó là (1). Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại Điều 68; (2). Phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, Điều 85 và (3). Lập phương án đào tạo,
chuyển đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm Điều 105. Đối với nội dung (3) không
có ý kiến khác nhau nhưng nội dung (1) và (2) có hai luồng ý kiến.
Công khai để người dân nắm bắt thông tin
Ý kiến cần đẩy mạnh công khai
cho rằng, việc tham gia đóng góp ý kiến của Nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, nhất là ở cấp huvện vẫn còn bất cập, dẫn đến kết quả lấy ý kiến và
công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đối với những vùng khó khăn như vùng
đồng bào dân tộc, vùng núi... còn hình thức. Do đó, cần công bố công khai trên các phương
tiện thông tin đại chúng khác như: Báo chí; Đài phát thanh, Đài truyền hình; niêm yết công khai tại điểm dân cư; niêm yết tại Nhà Văn hóa ấp, thôn,
bản, quy định thời gian 30 ngày làm việc kể từ ngày công khai thông tin về nội
dung lấy ý kiến. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, việc mở rộng niêm yết, trưng bày tại nơi công
cộng là khó khả thi do việc bảo quản tài liệu gồm: báo cáo thuyết minh, bản đồ trong suốt thời gian công khai lấy ý kiến
khó thực hiện. Thiết nghĩ, trong bối cảnh toàn xã hội thực hiện chuyển đổi số, lựa
chọn việc công khai trên các trang thông tin điện tử đã là đầy đủ và bảo đảm
tính minh bạch.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là những vấn đề quan trọng
Đối với việc điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất (Điều 71). Khoản 3 quy định: “Trong quá trình tổ chức thực hiện có thể điều chỉnh
về quy mô, địa điểm và số lượng dự án, công trình hoặc nhu cầu sử dụng đất của
hộ gia đình, cá nhân nhưng không làm thay đổi về chỉ tiêu sử dụng đất theo loại
đất và khu vực sử dụng đất theo chức năng trong quy hoạch sử dụng đất.” Ý kiến thống
nhất đánh giá, quy định này sẽ tạo điều kiện rất lớn trong quá trình triển khai
thực hiện các dự án giao thông. Do hướng tuyến các tuyến đường giao thông trong
quy hoạch sử dụng đất chỉ mang tính định hướng, khi lập dự án đầu tư sẽ tổ chức
khảo sát địa hình, địa chất để xác định cụ thể hướng tuyến, điều chỉnh các bán
kính cong để phù hợp với tốc độ thiết kế. Do đó, hướng tuyến của dự án đầu tư
sẽ có sai lệch so với bản đồ quy hoạch sử dụng đất nên việc cho phép điều chỉnh
sẽ tạo thuận lợi và nên làm.
Nhưng ý kiến băn khoăn cho rằng, nếu quá trình thực hiện quy
hoạch mà cho phép điều chỉnh về quy mô, địa điểm, số lượng dự án, nhu cầu sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch đã
được phê duyệt, làm cho quy hoạch thiếu ổn định, ảnh hưởng đến đời sống Nhân
dân và rất dễ bị lạm dụng trong quá trình thực hiện. Thiết nghĩ, vấn đề này cần
được hướng dẫn cụ thể ở văn bản dưới Luật.
Về hủy
bỏ thu hồi đất (quy định tại Điều 74), ý kiến thống nhất với dự thảo cho
rằng việc tổ chức rà soát, xử lý và công bố, công khai việc hủy bỏ thu hồi đất,
chuyển mục đích đối với đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất cấp huyện mà sau 3
năm chưa có quyết định thu hồi hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất
là phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét thời gian 3 năm nếu vì yếu tố bất khả kháng
hay yếu tố lỗi của cơ quan quản lý nhà nước trong việc hướng dẫn thực hiện các
thủ tục hành chính, cần quy định thời gian dài hơn nhưng không quá 5 năm.
Gia hạn thời hạn sử dụng đất nông nghiệp ghi nhận nhiều ý kiến khác nhau
Quan điểm không nhất trí cho rằng, quy định
3 năm là không thực hiện được, do hiện nay một số dự án đầu tư công phải thực
hiện rất nhiều quy trình (Chủ trương đầu tư, xây dựng, quy hoạch, kế hoạch, thu
hồi đất bồi thường, công khai, lấy ý kiến….); quá trình thực hiện có sự điều chỉnh
(tổng mức đầu tư, thiết kế kỹ thuật); công tác bồi thường giải phóng mặt bằng
khó khăn. Do đó, xảy ra việc dự án đang thực hiện các thủ tục kiểm kê, thu hồi
đất nhưng quá 3 năm chưa hoàn thành phải hủy bỏ kế hoạch sẽ khó khăn cho quá
trình thực hiện tiếp theo. Tuy nhiên, đây là những nguyên nhân chủ quan nên thiết
nghĩ quan điểm thứ nhất là phù hợp.
Liên quan đến việc gia hạn thời hạn sử dụng đất nông nghiệp (Điều 166). Từ
lập luận cho rằng, việc quyết định thời hạn giao đất là quyền của đại diện chủ
sở hữu (Nhà nước), khi hết thời hạn nhưng không phải làm thủ tục gia hạn có thể
ảnh hưởng tới quyền (quyết định) của đại diện chủ sở hữu và không bảo đảm, thống
nhất và mâu thuẫn về mặt pháp lý (vì khi giao thì có quyết định giao và có thời
hạn, khi hết thời hạn lại không cần làm thủ tục). Do đó, kiến nghị nên quy định
khi hết thời hạn phải làm thủ tục gia hạn nhưng phải quy định thủ tục theo hướng
đơn giản, rút gọn; bảo đảm đúng nguyên tắc về điều kiện thực hiện quyền của người
sử dụng đất đã được quy định là “trong thời hạn sử dụng đất”, đồng thời để tránh
tình trạng bỏ hoang không canh tác đất nhưng vẫn sở hữu quyền sử dụng đất.
Theo chiều ngược lại, ý kiến đề nghị sửa
Luật theo hướng không quy định thời hạn sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình
cá nhân, vì trên thực tế, khi hết hạn sử dụng đất nông nghiệp, hộ gia đình cá
nhân luôn tiếp tục được cơ quan nhà nước cho phép gia hạn, do đó việc quy định
thời hạn trở thành một quy định thừa. Vấn đề này, thiết nghĩ quan điểm thứ nhất
có sức thuyết phục hơn.
Đối với thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai (Điều 225): quy định tất cả các vụ việc tranh chấp đất đai, và tài sản gắn liền với đất đều do Tòa án giải quyết
trong khi cơ quan cung cấp hồ sơ, tài liệu là UBND các cấp thì việc kéo dài thời
gian xử lý vụ việc là điều sẽ xảy ra; mặt khác trong thực tế, có nhiều vụ việc
đơn giản có thể giải quyết được tại UBND các cấp, khi Toà án thụ lý sẽ mất rất
nhiều thời gian, công đoạn.
Ý kiến phản biện cho rằng, việc chuyển thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho
Tòa án là phù hợp với bản chất pháp lý của việc giải quyết tranh chấp và phù hợp
với Chiến lược cải cách tư pháp trong giai đoạn tới. Bỏ khiếu nại qua UBND các
cấp là phù hợp với xu hướng phát triển và Tòa án hiện có quy trình "tiền tố
tụng" rất hiệu quả, là kênh hòa giải và đối thoại, đồng thời, hệ thống hồ
sơ, dữ liệu đất đai đã được cải thiện nhiều so với trước đây sẽ giúp cho Tòa án
thực hiện nhiệm vụ. Tuy nhiên, nếu chuyển thẩm quyền cho Tòa án, cần quy định
rõ trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
(trách nhiệm, nghĩa vụ cung cấp và không cung cấp thông tin) tránh gây khó khăn
trong giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án.
Đối với các trường hợp Nhà nước cho thuê trả tiền một lần cho cả thời
gian thuê (quy định tại Điều 120). Ý kiến thống nhất phân tích từ thực tế hiện
nay, có nhiều loại dự án, đơn cử như dự án du lịch nghỉ dưỡng đang là mô hình
có nhu cầu rất lớn trong xã hội, là các công trình được xây dựng trên đất
thương mại dịch vụ. Đối với loại hình này, chủ đầu tư phải bỏ ra giá trị lớn để
đầu tư nên rất cần tính ổn định về pháp lý, từ đó cần được khuyến khích cho
đóng tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê để có thể yên tâm đầu tư phát
triển. Ý kiến khác lại cho rằng, hình thức thuê trả tiền một lần cho cả thời
gian thuê thời gian vừa qua thể hiện bất cập trong việc bảo đảm bền vững nguồn
thu từ đất. Nhà nước nên cho trả tiền thuê đất hàng năm để tạo ra nguồn thu ổn
định, thường xuyên cho ngân sách nhà nước và quy định rõ việc thu tiền thuê đất
hàng năm phải tính thời giá tại năm nộp tiền, đối với các trường hợp chậm nộp
tiền phải có chế tài.
Nguyễn Thị Oanh