Luật mới gồm 17 chương, 173 điều với nhiều điểm mới quan trọng, cụ thể như:
* Về khái niệm quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật
Để khắc phục hạn chế trong việc phân biệt khái niệm văn bản QPPL với văn bản hành chính thông thường và những văn bản khác của cơ quan nhà nước được ban hành trong thời gian qua, Luật đã bổ sung khái niệm “Quy phạm pháp luật” đồng thời hoàn thiện khái niệm “Văn bản QPPL”:
- QPPL là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện (khoản 1 Điều 3),
- Văn bản QPPL là văn bản có chứa QPPL, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Văn bản có chứa QPPL nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản QPPL (Điều 2).
* Về hình thức văn bản QPPL
So với Luật năm 2008 và Luật năm 2004, Luật đã giảm 05 loại văn bản QPPL, gồm: (1) Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội (trừ Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam); (2) Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; (03) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (04) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp huyện; (05) Chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp xã. Đối với Nghị quyết liên tịch, chỉ giữ lại hình thức Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật năm 2015 bổ sung hình thức văn bản QPPL của chính quyền đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Theo quy định tại Điều 3, hệ thống văn bản QPPL gồm 26 hình thức văn bản.
* Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL
Luật năm 2015 bổ sung 01 Điều về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tham gia vào quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL từ khâu lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL, chủ trì, tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, trình dự án, dự thảo đến ban hành văn bản QPPL (Điều 7).
Ngoài ra, Luật năm 2015 cũng quy định trong trường hợp dự thảo văn bản QPPL không bảo đảm về chất lượng, chậm tiến độ, không bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản QPPL thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và cơ quan ban hành văn bản QPPL trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mính phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ và tùy theo mức độ mà xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và quy định khác của pháp luật có liên quan.
* Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL
Luật năm 2015 có một số điểm đổi mới cơ bản về quy trình xây dựng, ban hành văn bản như sau:
- Tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong đó tập trung quy định về quy trình xây dựng chính sách;
- Đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL của một số cơ quan, người có thẩm quyền khác theo đó bổ sung quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục soạn thảo, thẩm định, thẩm tra văn bản;
- Bổ sung nhiều quy định mới về việc tổ chức lấy ý kiến nhằm mở rộng dân chủ, tăng cường công khai, minh bạch trong xây dựng văn bản QPPL; tạo điều kiện thuận lợi cho Nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng văn bản QPPL.
Quy trình xây dựng chính sách của Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại Khoản 2,3 và 4 Điều 27, gồm các bước sau đây:
Bước 1: Lập đề nghị xây dựng Nghị quyết
Cơ quan đề nghị xây dựng Nghị quyết phải tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản QPPL hiện hành có liên quan đến đề nghị xây dựng Nghị định; khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan; tổ chức nghiên cứu thông tin, tư liệu, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có liên quan đến đề nghị xây dựng Nghị định; xây dựng nội dung của chính sách trong đề nghị xây dựng Nghị định; đánh giá tác động của chính sách; dự kiến nguồn lực, điều kiện bảo đảm cho việc thi hành Nghị định sau khi được Hội đồng nhân dân thông qua; tổ chức lấy ý kiến; đăng tải đầy đủ hồ sơ đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thời hạn ít nhất 30 ngày để lấy ý kiến cơ quan, tổ chức có liên quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của các chính sách.
Bước 2: Thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết (Điều 115)
Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Nội vụ và các cơ quan, tổ chức có liên quan thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết. Thời hạn thẩm định đề nghị xây dựng Nghị quyết là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ gửi thẩm định. Báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ ý kiến của Sở Tư pháp về nội dung thẩm định và về đề nghị xây dựng Nghị quyết đủ điều kiện hoặc chưa đủ điều kiện trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Nội dung thẩm định được viễn dẫn theo nội dung thẩm định đề nghị xây dựng Luật, Pháp lệnh.
Bước 3: Thông qua chính sách trong đề nghị xây dựng Nghị quyết (Điều 116)
- Đối với đề nghị xây dựng Nghị quyết do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình thì Ủy ban nhân dân có trách nhiệm xem xét, thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số để thông qua chính sách trong từng đề nghị xây dựng Nghị quyết.
- Đối với đề nghị xây dựng Nghị quyết do cơ quan, tổ chức khác trình thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm thông qua chính sách trong đề nghị xây dựng Nghị quyết.
Bước 4: Xem xét đề nghị xây dựng Nghị quyết và phân công cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo (Điều 117, Điều 118)
Cơ quan, tổ chức đề nghị xây dựng Nghị quyết trình Thường trực Hội đồng nhân dân hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết. Thường trực Hội đồng nhân dân xem xét đề nghị; nếu chấp thuận thì phân công cơ quan trình dự thảo Nghị quyết và quyết định thời hạn trình Hội đồng nhân dân dự thảo Nghị quyết; cơ quan trình có trách nhiệm phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan phối hợp soạn thảo…
Ngoài ra còn một số điểm mới quan trọng khác như: bảo đảm quyền sáng kiến lập pháp của đại biểu Quốc hội; về xây dựng, ban hành văn bản QPPL theo trình tự, thủ tục rút gọn; về những hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL; về văn bản quy định chi tiết; về việc bảo đảm cho công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL.
Sĩ Tiến