Tuy nhiên trên thực tế khó thực hiện vì cơ cấu
đại biểu hiện nay chủ yếu thuộc các Ban Đảng; UBND tỉnh, lãnh đạo các sở ngành;
Bí thư, Chủ tịch UBND cấp huyện và khối Tư pháp (gần 70%), đại biểu phải đảm
được khối lượng công việc của cơ quan, đơn vị nên việc dành thời gian như trên
là khó khả thi.
Một số văn bản pháp
luật về tổ chức và hoạt động của HĐND đã được ban hành nhưng chậm và chưa có sự
thống nhất về thẩm quyền cho ý kiến đối với các nội dung phát sinh giữa hai kỳ
họp HĐND (ngày 30/01/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới ban hành Nghị quyết số
629/2019/UBTVQH14 về hướng dẫn một số hoạt động của HĐND).
Các đại biểu không chuyên trách tham gia hoạt động HĐND
Trong việc thực
hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung năm 2020: Thời
gian xây dựng nghị quyết quy phạm pháp luật từ lúc bắt đầu đến lúc thông qua kỳ
họp HĐND tỉnh rất dài nhưng thời gian dành cho các Ban HĐND tỉnh hoàn thành
việc thẩm tra chỉ có 5 ngày (chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp
HĐND, cơ quan trình dự thảo nghị quyết phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết đến
ban của HĐND được phân công thẩm tra để thẩm tra. Báo cáo thẩm tra phải được
gửi đến Thường trực HĐND tỉnh chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp HĐND
tỉnh), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chưa tương xứng, cân
đối về mặt thời gian để các Ban HĐND tỉnh có điều kiện phân tích sâu vấn đề.
Chế độ, chính sách
và các điều kiện bảo đảm hoạt động của HĐND các cấp chưa được quy định cụ thể,
do đó mỗi địa phương ở các tỉnh ban hành nghị quyết quy định chế độ, chính sách
với nội dung chi và mức chi khác nhau tùy thuộc vào điều kiện ngân sách của mỗi
địa phương, do đó có sự chênh lệch giữa các địa phương trong khi việc thực hiện
chức năng, quyền hạn của đại biểu là giống nhau.
Một cuộc họp của Thường trực HĐND với các ngành
Đối với Quy chế hoạt động của Thường trực HĐND
tỉnh, do
các quy chế đều được xây dựng theo trình tự chặt chẽ, công khai, có sự tham gia
góp ý đầy đủ và trách nhiệm của các cơ quan; có dự ước những tình huống phát
sinh và cách thức xử lý. Bên cạnh đó, quá trình triển khai thực hiện, các Ủy
viên Thường trực tuân thủ đúng quy chế, quyết định các vấn đề theo nguyên tắc
tập trung, dân chủ nên cơ bản quá trình thực hiện gặp thuận lợi. Bên cạnh đó
còn nội dung bất cập như sau:
Theo quy định tại khoản 3, Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương
(sửa đổi, bổ sung năm 2019) quy định “Thường trực HĐND là cơ quan thường trực
của HĐND, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này và các quy
định khác của luật có liên quan; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
HĐND”. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số văn bản dưới Luật (như Thông
tư số 76/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 và Thông tư số 77/2014/TT-BTC ngày
16/6/2014 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/14 của
Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước,
trong đó quy định UBND cấp tỉnh ban hành hệ số điều chỉnh giá đất hàng năm sau
khi xin ý kiến của Thường trực HĐND cùng cấp) quy định thẩm quyền Thường trực
HĐND tỉnh chưa thống nhất, chưa phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa
phương, dẫn đến khó khăn trong thực hiện một số nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của
Thường trực HĐND tỉnh theo quy định.
Nguyễn Thị Oanh