Coi trọng Nhân dân, “thân dân”, “vì dân” là tư tưởng xuyên suốt trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Người: bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân; mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân; quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân,…Người thường dùng khái niệm “ủy thác” để nói đến việc Nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho Nhà nước.
Quyền lực của Nhà nước từ cơ quan cao nhất là Trung ương đến địa phương, từ Chủ tịch nước đến cán bộ xã đều do Nhân dân “ủy thác”; khi hết nhiệm kỳ, Chính phủ sẽ trao lại quyền cho Nhân dân và Nhân dân sẽ trao quyền ấy cho một Chính phủ ở nhiệm kỳ mới do dân “tuyển cử”. Khái niệm “ủy thác” ấy là sự khẳng định quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào ngày 02-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), sau thành công của Cách mạng Tháng Tám. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và tuyên bố với thế giới rằng Việt Nam đã độc lập, tự do. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương tiến hành Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu Quốc hội thông qua Hiến pháp, thành lập Chính phủ và chính quyền các cấp của một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân là một cuộc vận động chính trị quan trọng, nhằm phát huy vai trò làm chủ thật sự của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, v.v...
Ngày 03-9-1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giầu, nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v.." .
Trong bối cảnh đất nước đầy khó khăn, vừa giành độc lập, đối mặt với thù trong giặc ngoài. Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời, song chưa được một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Các thế lực đế quốc và tay sai đang ráo riết chống lại Đảng Cộng Sản và Việt Minh, hòng lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ và thiết lập một chính quyền phản động tay sai cho đế quốc.... Trong bối ảnh ấy, cuộc Tổng tuyển cử đã được chuẩn bị rất khẩn trương, chu đáo trong khắp cả nước.
Một tuần sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời ký Sắc lệnh số 14 (ngày 08-9-1945) về Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Sắc lệnh nêu rõ: Nhân dân Việt Nam do Quốc dân Đại hội thay mặt là quyền lực tối cao để ấn định cho nước Việt Nam một Hiến pháp Dân chủ Cộng hòa. Trong tình thế hiện giờ, sự triệu tập quốc dân Đại hội là rất cần thiết để cho toàn dân tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập chống ngoại xâm.
Ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 34 về việc thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc tổng tuyển cử. Trong những ngày gian khó, phức tạp ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Hội đồng Chính phủ giải quyết những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh, trong đó việc tổ chức thành lập Quốc hội được đề ra thành chương trình nghị sự quan trọng của Đảng, Chính phủ và đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rất nhiều bài báo đăng trên báo Cứu quốc và một số báo khác nhằm tuyên truyền động viên nhân dân đi bỏ phiếu, thực hiện quyền làm chủ nước nhà: “Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”. Đề cập về ý nghĩa chính trị và tính chất dân chủ của cuộc bầu cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”, đặc biệt: “Lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và nghĩa vụ của người cử tri”. Từ đó, Người khẳng định: “Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”, “trong tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử, không phân chia trai, gái, giàu nghèo, tôn giáo, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó”.
Trước ngày bầu cử, tức là chiều ngày 05-01-1946, trước hơn hai vạn đồng bào Thủ đô Hà Nội mít tinh ủng hộ cuộc bầu cử, với tinh thần “dĩ công vi thượng” Người nói: “Làm việc bây giờ là hi sinh phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ đến lợi chung,…”. Hướng về đồng bào, cử tri, Người ân cần căn dặn: “Những ai muốn làm quan cách mạng thì không nên bầu. Ngày mai không ai ép, không ai mua, toàn dân sẽ thực hiện quyền dân chủ của mình”. Hướng về các ứng cử viên, Người nhắn nhủ sâu sắc: “Ngày mai dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng để thay mặt cho mình gánh vác việc nước. Ngày mai người ứng cử thì đông, nhưng số đại biểu được bầu thì ít, tất nhiên có người được cử, có người không được cử, những người trúng cử sẽ phải ra sức giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, ra sức mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào, phải luôn ghi nhớ và thực hành câu: vì lợi nước, quên lợi nhà; vì lợi chung, quên lợi riêng”.
Ngày 06-01-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của đất nước đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc đã bầu chọn 333 đại biểu Quốc hội đại diện cho nhiều địa phương, đảng phái chính trị, tầng lớp xã hội, bất chấp bom đạn của thực dân Pháp và sự phá hoại của các thế lực phản động. Lần đầu tiên toàn thể Nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được hưởng quyền làm chủ, độc lập, tự do của mình. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam ra đời, đánh dấu mốc phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định, Tổng tuyển cử là “kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.
Tư tưởng và quan điểm của Hồ Chí Minh về việc mở rộng cho mọi tầng lớp Nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc củng cố chính quyền Nhân dân. Quan niệm đó một mặt vẫn giữ được bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân; mặt khác, đáp ứng được yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ, đó là phải thực hiện đại đoàn kết dân tộc để chống thù trong giặc ngoài, tiến hành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Nhờ có những quan niệm đúng đắn về vấn đề bầu cử của Hồ Chí Minh và dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta, cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên (khóa I) ngày 06-01-1946 đã thành công tốt đẹp.
Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế; khẳng định niềm tin tuyệt đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của nhân dân ta; đồng thời, đó cũng là sự biểu thị khát vọng dân chủ của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sau cuộc Tổng tuyển cử, trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, Nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông), ra quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng đánh giặc cứu nước với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Những đại biểu do dân bầu ra, tuyệt đại bộ phận đã xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, đã rất mẫn cán trong công tác và chiến đấu vô cùng dũng cảm. Một số đại biểu đã hy sinh anh dũng trước họng súng quân Pháp như: Lý Chính Thắng - đại biểu Sài Gòn - Chợ Lớn; Thái Văn Lung - đại biểu Gia Định; Nguyễn Văn Luyện - đại biểu Hà Nội; Nguyễn Văn Tố - đại biểu Nam Định (Trưởng ban đầu tiên của Ban Thường trực Quốc hội, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội); Lê Thế Hiếu - đại biểu Quảng Trị; Trần Kim Xuyến - đại biểu Bắc Giang; Nguyễn Văn Triết - đại biểu Thủ Dầu Một; Huỳnh Bá Nhung - đại biểu Rạch Giá; Siểng - dân tộc Khơme, đại biểu Biên Hòa…
Một trong những điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ chức cơ quan dân cử đó là: Người chủ trương không sao chép, rập khuôn máy móc bất kỳ một mô hình nhà nước cụ thể nào mà kế thừa có chọn lọc để xây dựng phát triển nhà nước gắn liền với các điều kiện lịch sử cụ thể. Người đã tiếp thu những giá trị cơ bản của nền dân chủ Xô - viết, chắt lọc những tinh túy trong các nền dân chủ khác trên thế giới, từ đó chủ trương tổ chức bầu cử ở Việt Nam theo đơn vị hành chính dân cư nhằm lựa chọn các đại biểu vừa theo đơn vị hành chính dân cư, vừa theo đại diện các tổ chức, ngành giới, tầng lớp nhân dân. trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu những tư tưởng và mô hình tiến bộ của các chế độ nhà nước trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và đặt nền móng cho một chế độ bầu cử của nhà nước dân chủ thực sự đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Sự ra đời, phát triển của cơ quan dân cử ở nước ta gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn luôn quan tâm, chăm lo xây dựng Nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, các cơ quan dân cử được chính thức thành lập với nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Phát huy tinh hoa của dân tộc Việt Nam và nhận thức sâu sắc chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện một cách đồng bộ, toàn diện và nhất quán trong những bài phát biểu, bài viết, trong các Hiến pháp và những văn bản pháp luật quan trọng mà Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, chỉnh lý và ký Lệnh ban hành. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra”. Đồng thời, Người khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân... Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Đó là tư tưởng nhân dân được hun đúc, kế thừa và tiếp nối từ nguồn cội lịch sử mà Nguyễn Trãi, một nhà chính trị, nhà văn, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam từng nhấn mạnh “Đẩy thuyền là nước mà lật thuyền cũng là nước”. Chính vì thế, tư tưởng nhân dân không chỉ sâu sắc mà còn mang tính tiến bộ, đặt nền móng cho các tư tưởng chính trị và quản lý đất nước đến hôm nay
Tác giả bài viết: Phương Lâm
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
Thời gian đăng: 15/05/2025
lượt xem: 901 | lượt tải:118Thông báo Kết quả kỳ họp thứ 6 (chuyên đề) của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa X, nhiệm kỳ 2021 - 2026
Thời gian đăng: 11/11/2025
lượt xem: 55 | lượt tải:38Kết quả kỳ họp thứ 5 (chuyên đề) của Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa X, nhiệm kỳ 2021 - 2026
Thời gian đăng: 27/10/2025
lượt xem: 100 | lượt tải:71