HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAIhttps://hdnd.dongnai.gov.vn/uploads/hdnd_dongnai_banner.png
Thứ hai - 13/10/2025 21:14
Ngày 29 và 30 tháng 9 năm 2025, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025–2030 được tổ chức, đánh dấu một sự kiện chính trị trọng đại, mở ra thời kỳ phát triển mới sau khi thực hiện chủ trương sắp xếp đơn vị hành chínhtheo Nghị quyết số 202/2025/QH15 ngày 12 tháng 6 năm 2025 của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Đây không chỉ là kỳ đại hội quan trọng, nhằm tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020 - 2025 và xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2025 -2030,là một bước ngoặt lịch sử, đặt nền móng cho một giai đoạn phát triển với khát vọng vươn lên mạnh mẽ, xây dựng Đồng Nai trở thành tỉnh phát triển “xanh, giàu mạnh, văn minh, hiện đại”. Thành công của Đại hội là kết quả của quá trình kế thừa, phát huy những thành tựu qua nhiều nhiệm kỳ, thể hiện sự nỗ lực, cố gắng, công sức, trí tuệ của toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh; là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng và điều kiện thực tiễn của tỉnh. Kết quả của Đại hội thể hiện ý chí, nguyện vọng và khát vọng vươn lên; là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân tỉnh Đồng Nai, mở ra giai đoạn phát triển mới với tầm vóc và vị thế được nâng cao; tạo sự bứt phá, phát triển trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, phồn vinh và thịnh vượng; là tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030
Tại Đại hội, trên cơ sở đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội các Đảng bộ nhiệm kỳ 2020 – 2025 với 60/70 chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 đạt 7,11%/năm. Đến năm 2025, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt 694.457 tỷ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 153,7 triệu đồng/người. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ; kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 168 tỷ USD. Tổng thu ngân sách giai đoạn 2021 - 2025 đạt trên 378.000 tỷ đồng.Hiệu quả trong đầu tư công được tăng cường, huy động tốt nguồn lực từ các thành phần kinh tế, tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 2021 - 2025 tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tỉnh Đồng Nai trên 725.000 tỷ đồng.Hoạt động khoa học công nghệ và chuyển đổi số có chuyển biến tích cực, xếp hạng mức độ chuyển đổi số trong nhóm 14 tỉnh, thành phố của cả nước, cung cấp dịch vụ công luôn trong nhóm 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước.Tỷ lệ hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa đạt trên 90%, cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa đạt trên 98%, thôn, ấp khu phố đạt chuẩn văn hóa đạt trên 90%. Giáo dục và đào tạo có chuyển biến tích cực, đến cuối năm 2025, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 69,78%. Đến năm 2025, đạt 10 bác sĩ và 30,5 giường bệnh/1 vạn dân; có 23 bệnh viện; 4.490 bác sĩ. Chú trọng thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm. Đã xóa trên 2.000 căn nhà tạm, dột nát.Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đến năm 2025 đạt 95%. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực. Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, giữ vững an ninh biên giới, an ninh quốc gia. Công tác ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân được triển khai toàn diện, hiệu quả. Đặc biệt, công tác xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đạt nhiều kết quả tích cực. Bộ máy hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách hành chính có bước tiến rõ rệt. Vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng được khẳng định; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, tăng cường.Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng có lúc còn chậm; công tác đánh giá cán bộ có lúc, có nơi chưa sát thực tiễn. Cải cách hành chính trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu. Kinh tế chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số chưa trở thành động lực phát triển. Văn hóa, giáo dục, y tế ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn; tội phạm trên không gian mạng và trong thanh thiếu niên còn tiềm ẩn phức tạp.
Có thể nói, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, Đồng Nai được đánh giá tỉnh có “dư địa phát triển lớn”, “thời cơ vàng” cho sự tăng trưởng bứt phá,đóng vai trò cực tăng trưởng năng động ở vùng Đông Nam Bộ và cả nước với diện tích 12.737,18 km2; dân số khoảng 4,5 triệu người; 95 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó gồm 72 xã và 23 phường). Toàn Đảng bộ tỉnh có 99 đảng bộ trực thuộc với 131.989 đảng viên; là địa phương có sự đa dạng văn hóa, lịch sử, dân tộc và tôn giáo. Với vị trí chiến lược, giao thoa của 3/6 vùng kinh tế trọng điểm; có đường biên giới tiếp giáp Campuchia dài 258,939 km và 01 Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư. Là một trong những tỉnh phát triển công nghiệp hàng đầu của cả nước, với 83 khu công nghiệp được quy hoạch với diện tích trên 36.728 ha; có hơn 01 triệu ha đất nông nghiệp với nhiều sản phẩm có thương hiệu; có hệ thống sông Đồng Nai, sông Bé và hệ thống hồ thủy lợi lớn.Đô thị sân bay Long Thành và hành lang sông Đồng Nai trở thành “động lực kép” thúc đẩy dịch vụ, thương mại, logistics, bất động sản, tài chính và du lịch. Nền tảng chính trị - xã hội ổn định, truyền thống và bề dày văn hóa, lịch sử phong phú, cơ cấu dân cư đa dạng (với 37 thành phần dân tộc thiểu số và 10 tôn giáo).
Khu công nghiệp AMATA, Đồng Nai
Đánh giá tiềm năng, nguồn lực, dư địa, Đại hội đã khẳng định rõ và cụ thể những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2025 – 2030, một trong những quan điểm phát triển của Đại hội là: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Lãnh đạo xây dựng chính quyền địa phương 02 cấp chuyển từ quản lý sang quản trị địa phương, vì Nhân dân phục vụ. Phát huy tinh thần đoàn kết, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ năng lực, bản lĩnh, chuyên nghiệp. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và kiểm soát quyền lực. Với mục tiêu tổng quát là: Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần tiên phong, sáng tạo, khát vọng phát triển. Huy động, khai thác, phân bổ, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực. Phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức; đi đầu trong phát triển kinh tế hàng không, công nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp công nghệ cao, trung tâm logistics, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất tinh thần Nhân dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới và tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; phát huy vai trò trung tâm vùng Đông Nam Bộ, cùng cả nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên phát triển mới. Xây dựng tỉnh Đồng Nai phát triển xanh, giàu mạnh, văn minh, hiện đại; phấn đấu đến năm 2030 đạt các tiêu chuẩn cơ bản của thành phố trực thuộc Trung ương.
Dự án Sân bay Long Thành, Đồng Nai
Duy trì, phát huy tiềm năng, biến tiềm năng, lợi thế thành các chỉ tiêu cụ thể giai đoạn 2025 – 2030. Về kinh tế (đến năm 2030): Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt 10%/năm trở lên. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP theo giá hiện hành) đạt trên 1.200.000 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt trên 250 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng: 60-64%; nông lâm nghiệp, thủy sản: khoảng 5-7%; thương mại - dịch vụ: 25-28%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm: khoảng 5-6%. Tỷ trọng kinh tế số trong GRDP đạt trên 30%. Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn bình quân 10-12%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 30-35% GRDP. Số doanh nghiệp thành lập mới trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2026 - 2030 là 36.000 doanh nghiệp. Về văn hóa, xã hội (đến năm 2030): dân số trung bình của tỉnh đạt 4,868 triệu người, tuổi thọ trung bình đạt 77,67 tuổi, chỉ số phát triển con người (HDI) phấn đấu đạt khoảng 0,78. Số lao động có việc làm trong nền kinh tế đạt 2,6 triệu lao động; tỷ trọng lao động có việc làm phân theo ngành kinh tế: nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 15-16%, công nghiệp xây dựng 48-49%, dịch vụ 36-37%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 40%; tỷ lệ thất nghiệp dưới 2%. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt 7,5%/năm. Đạt 13-15 bác sĩ và 32 giường bệnh/vạn dân. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế phấn đấu đạt 97%; tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt 60%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 50%. Tỷ lệ trường mầm non, phổ thông công lập đạt chuẩn quốc gia phấn đấu đạt từ 80% trở lên. Giảm tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030) mức giảm từ 1-1,5 điểm %/năm. Tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 92%; tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch đáp ứng quy chuẩn đạt 85%. Phấn đấu đạt tỷ lệ 70% xã trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có ít nhất 10% xã đạt chuẩn nông thôn mới hiện đại. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 55%. Giai đoạn 2025 - 2030, hoàn thành khoảng 65.000 căn nhà ở xã hội. Về tài nguyên và môi trường (đến năm 2030): tỷ lệ che phủ rừng đạt 24,2%. Tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom, xử lý đạt 100%; duy trì tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100%; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn đến năm 2030 đạt 100%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 100%. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ xử lý nước thải ở các khu đô thị đạt 50%. Về quốc phòng, an ninh: Hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân hằng năm; tổ chức giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho 100% các đối tượng theo quy định. Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; giữ vững chủ quyền biên giới.Bảo đảm an ninh quốc gia; phấn đấu hoàn thành 100% chỉ tiêu công tác đảm bảo trật tự an toàn xã hộihằng năm; xây dựng 50% xã, phường không có ma túy.
Một trong những mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ đột phá, giải pháp chủ yếu được Đại hội đề ra và luôn luôn đứng hàng thứ nhất, đầu tiên, đó là: Tổ chức sở đảng, đảng viên, Nhân tố con người và công tác kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm nêu gương, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng,cụ thể như sau:
(1) Mục tiêu tổng quát (hàng đầu): Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần tiên phong, sáng tạo, khát vọng phát triển…
(2) Chỉ tiêu chủ yếu về xây dựng đảng, chính quyền (thứ nhất): Hằng năm, có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm đạt từ 3%/ trên tổng số đảng viên. Hằng năm, có trên 90% cơ quan, đơn vị, địa phương triển khai thực hiện tốt công tác dân vận chính quyền; mỗi xã, phường xây dựng được ít nhất 01 mô hình "Dân vận khéo" tiêu biểu, hiệu quả cao. Đến năm 2030, 100% hoạt động của cơ quan Đảng, Nhà nước được chỉ đạo, điều hành trên môi trường điện tử.
(3) Nhiệm vụ trọng tâm (hàng đầu): Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, có khát vọng cống hiến. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm nêu gương, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn dân.
(4) Nhiệm vụ đột phá (hàng đầu): Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ phẩm chất, năng lực, tính hành động cao và khát vọng cống hiến, có uy tín ngang tầm nhiệm vụ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, logistics, giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số.
(5) Giải pháp chủ yếu (đầu tiên): Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về công tác kiểm tra, giám sát năm 2025
Việc xác định thứ tự ưu tiên nêu trên có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện đúng và hiệu quả Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường củng cố tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương về Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những diễn biến “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 296-QĐ/TW, ngày 30/5/2025 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, với các quan điểm cụ thể:
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đề cao tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở, nhất là bí thư cấp uỷ. Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên và công đoàn, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu, nhất là ở địa bàn khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài. Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Công tác kiểm tra, giám sát phải đảm bảo các nguyên tắc cụ thể: Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra. Tổ chức đảng cấp trên kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng, đảng viên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe và giáo dục. Tuân thủ đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thẩm quyền, phương pháp công tác theo quy định của Đảng; chủ động, kịp thời, công khai, dân chủ, khách quan, công tâm, thận trọng, chặt chẽ, chính xác, nghiêm minh. Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, không có ngoại lệ. Nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành kỷ luật đảng được quy định tại Điều lệ Đảng, các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Mọi tổ chức đảng và đảng viên phải tuân thủ nhằm bảo đảm việc thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên được thống nhất, chặt chẽ, công minh, chính xác, kịp thời.
Đô thị ven Sông Đồng Nai
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới với tầm nhìn chiến lược và khát vọng vươn lên mạnh mẽ. Để hiện thực hóa những mục tiêu lớn lao đó, nhân tố con người giữ vai trò quyết định. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu; không ngừng học tập, rèn luyện, đổi mới sáng tạo, góp phần xây dựng tỉnh nhà phát triển bền vững. Tổ chức cơ sở đảng – nền tảng của Đảng – phải thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, gắn bó mật thiết với Nhân dân, trở thành hạt nhân đoàn kết, tạo đồng thuận xã hội, lan tỏa khát vọng phát triển. Cùng với đó, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cần được tăng cường toàn diện, thực chất, thường xuyên và nghiêm minh. Đây là công cụ quan trọng để giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đồng thời kịp thời phát hiện, khích lệ nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý sai phạm từ sớm, từ xa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đề cao vai trò con người, tổ chức cơ sở đảng và công tác kiểm tra, giám sát sẽ là chìa khóa để Đồng Nai bứt phá, hiện thực hóa khát vọng xây dựng tỉnh “xanh, giàu mạnh, văn minh, hiện đại”, đóng vai trò cực tăng trưởng năng động của vùng Đông Nam Bộ và cả nước trong kỷ nguyên phát triển mới.