Theo mô hình
của một số nước có nền kinh tế phát triển dựa trên các doanh nghiệp công nghệ
số, đến năm 2030, Việt Nam cần ít nhất 100.000 doanh nghiệp công nghệ số để
phát triển kinh tế số, xây dựng đô thị thông minh, chính quyền điện tử, ứng
dụng thành tựu công nghệ số rộng khắp trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và
thực hiện chuyển đổi số quốc gia. Bốn loại doanh nghiệp công nghệ số cần tập
trung phát triển bao gồm: (i) Các tập đoàn, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ
lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội chuyển hướng hoạt động sang lĩnh vực
công nghệ số, đầu tư nghiên cứu công nghệ lõi; (ii) Các doanh nghiệp công nghệ
thông .tin đã khẳng định được thương hiệu đảm nhận các sứ mệnh tiên phong
nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ sô và chủ động trong sản xuât; (iii)
Các doanh nghiệp khởi nghiệp ứng dụng công nghệ số để tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ mới trong các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội; và (iv) Các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo về công nghệ số.
Khát vọng về
một Việt Nam hùng cường, thị trường gần 100 triệu người và các bài toán đặc thù
của Việt Nam trong các lĩnh vực nông nghiệp, giao thông, y tê, giáo dục, tài
chính, tài nguyên, môi trường... chính là tiền đề thuận lợi cho các doanh
nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh và vươn ra thế giới. Để đạt mục tiêu trên, Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp Việt
Nam cần tập trung thực hiện triệt để các giải pháp sau:
1. Xây dựng
Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm
2030, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong năm 2020.
2. Xây dựng Kế
hoạch phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam của từng ngành, từng địa
phương theo giai đoạn 2021 - 2025 và 2026 - 2030.
3. Xác lập 01
đầu mối ở Trung ương và 01 đầu mối ở mỗi địa phương để thực hiện việc tổng hợp,
điều phối, tổ chức hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ số.
4. Xây dựng
khung chính sách thử nghiệm có kiểm soát đối với các sản phẩm, dịch vụ, mô hình
kinh doanh mới ứng dụng công nghệ số tại Việt Nam, trình cấp có thẩm quyền ban
hành trong giai đoạn 2020 - 2021.
5. Xây dựng
chính sách, giải pháp tạo lập thị trường cho các doanh nghiệp công nghệ số Việt
Nam bao gồm các doanh nghiệp khởi nghiệp trong xây dựng và triển khai các
chương trình, đế án, dự án vê chính phủ điện tử, chuyển đổi số, đô thị thông
minh, nông nghiệp thông minh,...
6. Cải cách các
quy định về Quỹ phát triển khóa học và công nghệ của doanh nghiệp để cho phép
đầu tư vào hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, khởi nghiệp công nghệ đanh giá hiệu
quả dựa trên tổng mức đâu tư theo chu kỳ 3 - 5 năm, hoàn thành trong năm 2021.
7. Đơn giản hoá
các thủ tục quản lý và sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh
nghiệp đê tăng cường đâu tư cho ứng dụng và đôi mới công nghệ của doanh nghiệp.
8. Nghiên cứu,
đề xuất thành lập Quỹ phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam với nguồn
vốn huy động từ xã hội, báo cáo Thủ tương Chính phủ trong năm 2020.
9. Định hướng,
hỗ trợ tối thiểu 5 - 10 doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển một số
sản phẩm số trọng điểm quốc gia, trở thành trụ cột của hệ sinh thái doanh
nghiệp công nghệ số Việt Nam, trước năm 2025.
10. Phát triển
tối thiểu 5-10 nền tảng công nghệ số dùng chung để thúc đẩy ứng dụng công nghệ
số, thúc đẩy phát triển sản phẩm số trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đưa
vào sử dụng trước năm 2025.
11. Định kỳ tổ
chức Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam.
12. Tuyên dương
các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam tiêu biểu thực hiện tốt chiến lược “Make in Viet Nam” và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư,
quảng bá thương mại, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và hỗ trợ xuất khẩu cho các
sản phẩm, dịch vụ, giải pháp và mô hình kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ
số Việt Nam.
Lê Lài