
Các vị Đại biểu Quốc hội đơn vị Đồng Nai tham dự phiên họp sáng ngày 26-5-2020
Về các nội dung tiếp thu ý kiến của đại biểu
Quốc hội: So với dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, dự thảo
Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý 12 nội dung tại 14 điều, khoản của Luật Tổ chức
Quốc hội, tập trung vào các nội dung sau: (1) tiêu chuẩn một quốc tịch đối với
ĐBQH; (2) tăng tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách lên ít nhất là 40% tổng số
ĐBQH; (3) việc quyết định số lượng và phê chuẩn ĐBQH hoạt động chuyên trách tại
Đoàn ĐBQH; (4) công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách; (5)
việc bảo đảm kinh phí hoạt động của Đoàn ĐBQH và bộ máy tham mưu, giúp việc
Đoàn ĐBQH; (6) việc tổ chức Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách; (7) không quy
định hình thức văn bản kết luận của UBTVQH trong Luật; (8) đổi tên 02 Ủy ban
của Quốc hội; (9) không quy định số lượng cấp phó cụ thể tại Hội đồng và từng
Ủy ban; (10) giữ chức danh Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách tại Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội như Luật hiện hành nhưng mở rộng cơ cấu
Thường trực Hội đồng, Thường trực Ủy ban bao gồm cả Ủy viên Chuyên trách; (11)
bổ sung trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và Ủy ban của Quốc hội trong việc tham
gia thẩm tra và việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ
thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; (12) làm
rõ hơn trách nhiệm của thành viên Hội đồng, thành viên Ủy ban trong việc tham
dự phiên họp toàn thể của Hội đồng, Ủy ban.
Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự thảo
Luật: Tổng hợp ý kiến ĐBQH tại kỳ họp thứ 8 và ý kiến đề xuất cụ thể của
các cơ quan, tổ chức, các Đoàn ĐBQH cho thấy, một số ý kiến cho rằng phạm vi
sửa đổi, bổ sung như dự thảo Luật còn hẹp, đề nghị nên sửa đổi toàn diện và
trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10. UBTVQH thấy rằng, Luật Tổ chức
Quốc hội hiện hành mới được thực hiện hơn 04 năm, về cơ bản đang phát huy hiệu
quả. Qua nghiên cứu các ý kiến của ĐBQH, có một số nội dung có liên quan trực
tiếp đến quy định của Hiến pháp năm 2013 nên cần có thời gian nghiên cứu thấu
đáo; một số vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật khác hoặc được quy
định trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của UBTVQH hay đề án, văn
bản khác. UBTVQH tiếp tục xin phép Quốc hội tại kỳ họp này chỉ tập trung sửa
đổi, bổ sung một số nội dung đã có sự đồng thuận, thống nhất cao trong Luật Tổ
chức Quốc hội nhằm kịp thời thể chế hóa nghị quyết của Đảng và trong phạm vi
khuôn khổ quy định của Hiến pháp để có thể thực hiện được ngay, bảo đảm tính ổn
định của Luật và của công tác cán bộ, tổ chức bộ máy nhà nước; còn các nội dung
khác sẽ trình Quốc hội xem xét vào thời điểm thích hợp khi đã có sự nghiên cứu,
chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng.
Về tiêu chuẩn đối với ĐBQH (Điều 22): Qua thảo luận, một số ý kiến đề nghị cần
quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn ĐBQH. Bên cạnh đó, ĐBQH hoạt động chuyên
trách ở trung ương, ở địa phương còn phải có thêm một số tiêu chuẩn riêng để
làm cơ sở cho công tác bố trí cán bộ và theo dõi, đánh giá trong quá trình làm
nhiệm vụ đại biểu.
UBTVQH nhận thấy, việc đặt ra các yêu cầu
cao hơn đối với ĐBQH nói chung và ĐBQH hoạt động chuyên trách nói riêng là nhu
cầu chính đáng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng của ĐBQH, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Đây cũng là quan điểm chỉ
đạo của Đảng trong quá trình lựa chọn, giới thiệu cán bộ ứng cử ĐBQH trong các
nhiệm kỳ qua. Bên cạnh các tiêu chuẩn chung của ĐBQH đã được Luật Tổ chức Quốc
hội quy định, trong các văn bản chỉ đạo của Đảng còn đề ra nhiều tiêu chuẩn,
điều kiện cụ thể (như về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học
vấn, lĩnh vực chuyên môn, vị trí công tác, kinh nghiệm, uy tín, độ tuổi...) với
quy trình đề cử, giới thiệu chặt chẽ hơn nhằm phát hiện, lựa chọn được những
cán bộ xứng đáng, có năng lực, phẩm chất phù hợp để giới thiệu ứng cử ĐBQH làm
cơ sở cho cử tri xem xét, đánh giá, bầu chọn làm người đại diện cho mình tại
Quốc hội. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn của ĐBQH quy định trong Luật Tổ
chức Quốc hội hiện hành đã thể hiện đầy đủ các năng lực, phẩm chất mà người
ĐBQH phải có, cụ thể hóa quyền ứng cử ĐBQH đã được Hiến pháp quy định để áp
dụng chung cho cả ĐBQH là người do các cơ quan, tổ chức, do Đảng giới thiệu và
ĐBQH là người ngoài Đảng, người tự ứng cử.
Do đó, UBTVQH xin phép Quốc hội cho giữ các
nội dung này và không bổ sung các tiêu chuẩn trong Đảng làm tiêu chuẩn chung
cho các ĐBQH. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiếp tục nghiên cứu,
tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH để cụ thể hóa trong Đề án bầu cử ĐBQH khóa XV
cũng như trong các quy định về tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá cán bộ phù hợp với
từng nhóm đối tượng (ĐBQH hoạt động chuyên trách, ĐBQH kiêm nhiệm, ĐBQH tái
cử...) nhằm tạo điều kiện cho cử tri lựa chọn, bầu ra được những đại biểu thực
sự xứng đáng làm người đại diện cho mình tại Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội đăng ký thảo luận liên quan dự án Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi)
Về công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt
động chuyên trách: đề nghị làm rõ
thẩm quyền phân loại, đánh giá đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa
phương; làm rõ ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương là do trung ương hay
địa phương quản lý; cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cán bộ ở địa phương và
trung ương để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung liên quan đến công tác cán
bộ đối với nhóm đối tượng này.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến ĐBQH tại kỳ họp thứ
8, trong quá trình nghiên cứu chỉnh lý dự thảo Luật, các cơ quan đã đề xuất
luật hóa quy định liên quan đến công tác quản lý cán bộ, đánh giá hoạt động đối
với ĐBQH hoạt động chuyên trách tại Nghị quyết số 353/2017/UBTVQH14 của UBTVQH.
Tuy nhiên, qua thảo luận, một số ý kiến cho rằng, quy định nêu trên vẫn chưa
thật đầy đủ, chưa đủ cụ thể để có thể thực hiện ngay và một số nội dung chưa
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, có thể gây chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ
giữa các cấp trong công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách
ở địa phương.
UBTVQH thấy rằng, các ý kiến nêu trên là có cơ
sở. Công tác quản lý cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương
bao gồm nhiều nội dung và có tính đặc thù, đòi hỏi phải có sự phân công, phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở trung ương và địa
phương, đặc biệt là trong việc đánh giá hoạt động, thi đua, khen thưởng, điều
động, luân chuyển... đối với ĐBQH. Vì vậy, UBTVQH xin phép được tiếp thu ý kiến
của các vị ĐBQH theo hướng quy định trong Luật thẩm quyền, trách nhiệm của cơ
quan có thẩm quyền quản lý cán bộ ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong
việc quản lý công tác cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách của địa phương
mình (Khoản 3a Điều 43); đồng thời giao UBTVQH quy định về việc thực hiện
công tác cán bộ đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách, việc thực hiện nhiệm vụ
đại biểu, chế độ, chính sách và các điều kiện bảo đảm khác đối với ĐBQH và ĐBQH
hoạt động chuyên trách (Khoản 1 Điều 54) để phù hợp với phạm vi phân cấp, gắn
với trách nhiệm của chính quyền địa phương và tình hình thực tế trong từng giai
đoạn.
Về Đoàn đại biểu Quốc hội: Nhiều ý kiến ĐBQH đề nghị làm rõ địa vị
pháp lý, vai trò của Đoàn ĐBQH trong hệ thống chính trị ở địa phương. Theo đó,
đề nghị xác định Đoàn ĐBQH là cơ quan của Quốc hội, là cánh tay nối dài của
Quốc hội ở địa phương, độc lập tương đối với địa phương. UBTVQH thấy rằng, vấn
đề địa vị pháp lý và vai trò của Đoàn ĐBQH luôn được các vị ĐBQH các khóa quan
tâm, thảo luận và nêu nhiều phương án tại mỗi lần sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức
Quốc hội.
Thực hiện quy định của Luật Tổ chức Quốc hội
hiện hành, Đoàn ĐBQH có Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn, trong đó có ít nhất 01
ĐBQH hoạt động chuyên trách tại địa phương; được bố trí trụ sở làm việc, có bộ
máy giúp việc và được cấp ngân sách đầy đủ để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn do luật định. Với các quy định này, các Đoàn ĐBQH đã và đang phát huy
vai trò và đạt được nhiều kết quả quan trọng, hỗ trợ tích cực cho ĐBQH thực
hiện các nhiệm vụ của đại biểu dân cử. Đoàn ĐBQH là một hình thức tổ chức có
tính đặc thù trong Quốc hội Việt Nam phù hợp với điều kiện phần lớn các ĐBQH
hoạt động kiêm nhiệm.
Vai trò của Đoàn ĐBQH vừa là tổ chức, hỗ trợ,
tạo điều kiện cho các ĐBQH thực hiện nhiệm vụ đại biểu tại địa phương, vừa đồng
thời giúp duy trì mối quan hệ gắn kết giữa Quốc hội với địa phương, là nơi tập
hợp kiến nghị, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của cả chính quyền và cử tri địa
phương đến với Quốc hội. Do đó, Đoàn ĐBQH cần gắn bó chặt chẽ với chính quyền
địa phương song Đoàn không độc lập hoàn toàn cũng như không tham gia trực tiếp
vào các công việc của chính quyền địa phương vì mỗi cấp chính quyền có nhiệm
vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động khác nhau. Vì vậy, xin Quốc hội cho giữ các
quy định về địa vị pháp lý nhưng có điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn
ĐBQH liên quan đến bộ máy giúp việc như trong dự thảo Luật.
Về bộ máy giúp việc của Đoàn ĐBQH (Điều 43): Hiện Chính phủ đã có Báo cáo số
232/BC-CP ngày 18/5/2020 tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số
580/2018/UBTVQH14 của UBTVQH về thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH, Văn
phòng HĐND và Văn phòng UBND tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo
Báo cáo tổng kết, “đa số địa phương triển khai thực hiện thí điểm kiến nghị chỉ
nên thực hiện hợp nhất Văn phòng Đoàn ĐBQH với Văn phòng HĐND cấp tỉnh và giữ
nguyên Văn phòng UBND cấp tỉnh”.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của ĐBQH, đề nghị
Quốc hội cho phép chỉ quy định khái quát trong Luật Tổ chức Quốc hội về bộ máy
giúp việc của Đoàn ĐBQH như thể hiện tại Khoản 4 Điều 43 và giao Chính phủ quy
định cụ thể bởi sau khi tổ chức lại thì cơ quan giúp việc chung sẽ có vị trí
tương đương cấp Sở và thuộc bộ máy của chính quyền địa phương. Trong quá trình
xây dựng quy định và mô hình của cơ quan giúp việc này, đề nghị Chính phủ đặc
biệt quan tâm đến việc bảo đảm công tác chỉ đạo, điều hành của Đoàn ĐBQH đối
với cơ quan tham mưu, giúp việc chung và bộ máy trực tiếp giúp việc cho Đoàn
ĐBQH để bảo đảm hiệu quả hoạt động của Đoàn ĐBQH.
Về phạm vi lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân
tộc, Ủy ban của Quốc hội: đề
nghị cho giữ phạm vi lĩnh vực phụ trách của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội như quy định trong Luật hiện hành. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị cân
nhắc chuyển lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng từ Ủy ban Kinh tế sang Ủy ban Tài
chính, Ngân sách để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khoa học trong việc
quản lý chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Kim Chung