Phạm vi của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung) tập trung vào một số vấn đề thật sự cần thiết liên quan đến công tác tổ chức bầu cử khi tiến hành bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp trong cùng một ngày, bảo đảm sự thành công của cuộc bầu cử. Luật cũng đã quy định về số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu và quy định khu vực bỏ phiếu bầu cử ĐBQH đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu HĐND các cấp.
Ông Nguyễn
Văn Bính, Phó Trưởng Ban công tác đại biểu của
UBTVQH, Thường trực Ban soạn
thảo phát biểu.
Hội đồng bầu cử chỉ thành lập duy nhất là Hội đồng bầu cử Trung ương. Đối với các địa phương thì Luật sửa đổi, bổ sung đã giao cho UBND là cơ quan chủ trì thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc (vì hiện nay UBND có đầy đủ ở ở cả ba cấp; trong khi đó ở các địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường sẽ không có Thường trực HĐND), Luật sửa đổi, bổ sung cũng đã quy định thành lập Ủy ban bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND cấp tỉnh để thay thế và thực hiện nhiệm vụ chung của cả Ủy ban bầu cử ĐBQH và Hội đồng bầu cử đại biểu HĐND; các Hội đồng bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện, cấp xã được đổi tên tương ứng thành Ủy ban bầu cử. Đồng thời, Luật cũng đã sửa đổi về cơ quan chủ trì thành lập, thành phần Ban bầu cử ĐBQH nhằm đảm bảo tính thống nhất với việc thành lập tổ chức phụ trách bầu cử ở cấp tỉnh, cấp xã; ngoài ra Luật cũng đã quy định Tổ bầu cử đồng thời thực hiện công tác bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND 3 cấp tại cùng một khu vực bỏ phiếu, để làm được công việc này thì Tổ bầu cử sẽ được tăng thêm số lượng thành viên (từ 11 đến 21 người).
Về số người ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử ĐBQH, để đảm bảo tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, Điều 46 Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội được sửa đổi theo hướng “Số người trong danh sách ứng cử ĐBQH ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó; nếu đơn vị bầu cử đó được bầu 03 đại biểu thì số người trong danh sách ứng cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là 02 người. Trong trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng thì do Hội đồng bầu cử quyết định”. Quy định về số dư trong Luật sửa đổi, bổ sung là quy định chung cho tất cả những người ứng cử ở đơn vị bầu cử đó mà không phân biệt ứng cử viên do trung ương hay địa phương giới thiệu. Trường hợp khuyết người ứng cử trong những trường hợp nêu trên thì Hội đồng bầu cử có thể quyết định chọn người có tín nhiệm cao nhất trong số những người còn lại ở danh sách đã hiệp thương lần thứ ba để đưa vào danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH hoặc quyết định điều chuyển người ứng cử ở đơn vị bầu cử khác trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc quyết định giảm số đại biểu được bầu ở đơn vị bầu cử đó. Về thời gian bầu cử, trong điều kiện bầu cử chung cả ĐBQH và đại biểu HĐND thì quy định tại 02 Luật bầu cử về kết thúc sớm cuộc bầu cử không còn phù hợp. Trong nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung đã bỏ quy định về kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn ở những khu vực đã có 100% cử tri đi bầu tại Điều 48 của Luật bầu cử địa biểu HĐND và giữ nguyên quy định tại điều 57 của Luật bầu cử ĐBQH hiện hành.
Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật bầu của ĐBQH và Luật bầu cử đại biểu HĐND quy định trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Ủy ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định. Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu cử đại biểu đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.
Lưu Thị Hà