Như trong 04 công trình chuyển tiếp, có công trình chậm tới 4 năm đó là: Dự án xây dựng Trường THCS Bảo Hòa (Xuân Lộc) do Sở Giáo dục đào tạo làm chủ đầu, dự án được phê duyệt từ ngày 11/12/2002, thời gian thực hiện 2002-2004. Nhưng mãi đến tháng 9 năm 2005 mới tổ chức đấu thầu và đơn vị trúng thầu đã không thực hiện khởi công được vì không có mặt bằng do vướng đền bù giải tỏa, cho nên phải hủy kết quả đấu thầu. Ngày 29 tháng 3 năm 2007, UBND huyện Xuân Lộc mới thực hiện cưỡng chế giải tỏa bàn giao mặt bằng xây dựng công trình cho Sở GDĐT tiến hành triển khai dự án. Tổng vốn đầu tư theo dự án thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán là 8,031 tỷ đồng, đến khi khởi công, giá trị tổng vốn đầu tư của công trình này là 12,08 tỷ, tăng hơn 4 tỷ so với TKKT. Công trình này chậm là do địa điểm được giới thiệu đã không phù hợp với quy hoạch, phải điều chỉnh quy hoạch, việc cưỡng chế giải tỏa đã thực hiện xong, nhưng hộ dân bị cưỡng chế giải tỏa vẫn tiếp tục khiếu nại. Tiến độ thực hiện tính đến cuối tháng 9 năm 2007 đạt khối lượng thi công khoảng 30%, dự kiến hoàn thành vào tháng 4 năm 2008, như vậy chậm 4 năm so với thời gian ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Dự án xây dựng Trung tâm Lao và Bệnh phổi, được UBND tỉnh duyệt dự án đầu tư từ ngày 12/9/2002, với tổng mức đầu tư là 44,376 tỷ đồng, tiến độ thực hiện ghi trong dự án là năm 2003-2005, dự án do Sở Y tế làm chủ đầu tư. Công trình được Sở XD thẩm định và trình UBND tỉnh phê duyệt hồ sơ thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán lần 1 vào ngày 05/01/2004, thẩm định xong dự toán chi tiết vào ngày 28/8/2004. Sau đó chờ giải phóng mặt bằng và điều chỉnh lại dự toán công trình, thẩm định xong các hạng mục lần thứ 2 vào ngày 21/4/2005. Tháng 5 năm 2005, được UBND tỉnh phê duyệt kế họach đấu thầu, tổ chức đấu thầu và có kết quả đấu thau gói thầu xây lắp số 1 theo thông báo trúng thầu số 6683/TB-UBND, ngày 19/10/2005, thời gian thi công là 480 ngày, khởi công ngày 11/11/2005. Với thời gian các công đoạn chuẩn bị các thủ tục từ khi dự án đầu tư được duyệt đến khi đấu thầu xong và khởi công mất thời gian là 3 năm, thời gian thi công ghi 480 ngày, nghĩa là đến tháng 3 năm 2007 phải hoàn thành, nhưng đến nay (tháng 10) chưa hoàn thành và dự kiến hoàn thành vào tháng 12 năm 2007, nếu dự kiến hoàn thành được thực hiện thì cũng chậm mất 9 tháng theo hợp đồng thi công, chậm mất 2 năm so với dự án đầu tư được duyệt. Nhưng hiện nay chưa có điện 3 pha để thử tải một số thiết bị, đồng thời hạng mục đường vào Trung tâm lao cũng đang trong giai đoạn thông báo và áp giá đền bù cho các hộ dân, cho nên việc dự kiến hoàn thành công trình vào tháng 12 năm 2007 là rất khó thực hiện. Dự án xây dựng trụ sở khối Đảng huyện Cẩm Mỹ: UBND tỉnh duyệt dự án đầu tư ngày 14 tháng 1 năm 2005, với tổng mức đầu tư 14,564 tỷ đồng (xây lắp 11,346 tỷ đồng; thiết bị 1,068 tỷ đồng; chi phí khác 0,823 tỷ; dự phòng 1,327 tỷ đồng). Trong quá trình lập thiết kế kỹ thuật- tổng dự toán và thực hiện dự án, quy mô dự án không thay đổi nhưng do giá vật liệu, vật tư tăng, ngày 1/3/2006 Ủy ban nhân dân tỉnh có quyết định số 2425/QĐ-UBND về việc điều chỉnh dự án đầu tư Trụ sở khối Đang huyện Cẩm Mỹ với tổng mức đầu tư là 16,531 tỷ đồng (xây lắp 11,791 tỷ đồng; thiết bị 1,467 tỷ đồng; chi phí khác 1,116 tỷ; dự phòng 2,157 tỷ đồng), tăng 2 tỷ đồng. Thời gian theo dự án đầu tư là 2005-2006, theo hợp đồng thi công là 215 ngày, tính từ ngày 15/7/2006, nghĩa là hoàn thành vào tháng 2 năm 2007, nhưng dự kiến hoàn thành vào cuối tháng 10 năm 2007, như vậy chậm 01 năm so với thời hạn ghi trong dự án đầu tư, chậm 8 tháng so với hợp đồng thi công xây dựng. Dự án xây dựng cải tạo Bệnh viện đa khoa khu vực Thống Nhất: Công trình được UBND tỉnh duyệt dự án đầu tư từ ngày 31/12/2003, tổng mức đầu tư theo dự án đầu tư là 73 tỷ, tiến độ thực hiện năm 2004-2007. Vào tháng 9 năm 2005, được UBND tỉnh duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán, năm 2006 được ghi kế hoạch vốn triển khai thực hiện dự án, nhưng do phải lập dự toán điều chỉnh do nhà nước thay đổi chính sách tiền lương, đến 21 tháng 4 năm 2006 lập xong dự toán điều chỉnh, tổng mức đầu tư điều chỉnh là 82,193 tỷ đồng (tăng gần 10 tỷ đồng). Đến ngày 01/ 6 /2006 có quyết định duyệt hồ sơ mời thầu 2 gói thầu xây lắp, đến tháng 10 năm 2006 có quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu gói thầu xây lắp số 1, ngày 19/10/2006 khởi công, thời gian thi công là 450 ngày, dự kiến đến tháng 12 năm 2007 hoàn thành đưa vào sử dụng, đạt tiến độ theo hợp đồng xây dựng. Cac gói thầu còn lại dự kiến hoàn thành vào thàng 12 năm 2008, như vậy về thời gian so với dự án đầu tư thì chậm 2 năm (dự án đầu tư ghi tiến độ thực hiện 2004-2006)
Để khắc phục những tồn tại, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình trọng điểm, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh đề nghị:
Ủy ban nhân dân tỉnh: Phải có biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng các công trình XDCB trọng điểm trên địa bàn, vì trong thời gian qua tất cả các công trình trọng điểm việc quản lý điều hành, thực hiện thi công chưa tương xứng với danh mục “Công trình trọng điểm”, cho nên dẫn các công trình trọng điểm đều chậm tiến độ. Công tác giải ngân vẫn trì trệ, sự phối kết hợp giữa các ngành chức năng để tháo gỡ khó khăn, ách tắc chưa thường xuyên, làm cho vốn đầu tư XDCB chậm đưa vào sử dụng, kém hiệu quả. Đồng thời phải chỉ đạo các ngành chức năng liện quan rút kinh nghiem và xác định trách nhiệm chậm tiến độ của từng công trình nguyên nhân từ ngành nào, đơn vị nào để khắc phục trong thời gian tới. Trong thời gian tới việc điều chỉnh tăng giá trị đầu tư do khách quan hay chủ quan, đề nghị UBND tỉnh phải có báo cáo giải trình tại các kỳ họp HĐND tỉnh, vì trong thời gian qua, đã có rất nhiều các Công trình có tổng mức đầu tư tăng nhiều so với giá trị đầu tư đã được ghi trong Nghị quyết HĐND tỉnh.
Nguyễn Thị Phi