1. Cử tri xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa phản ánh: Hiện nay tình trạng khai thác cát trái phép tại khu vực ven sông xã Hiệp Hòa diễn biến phức tạp, gây bức xúc cho bà còn nhân dân, đề nghị tỉnh chỉ đạo giải quyết triệt để tình trạng trên.
Sở Tài nguyên và Môi trường trả lời cụ thể như sau:
Ngày 21/5/2010, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 30/2010/QĐ-UBND quy định về trách nhiệm quản lý và bảo vệ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, các địa phương đã chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức lập đoàn kiểm tra các hoạt động khai thác khoáng sản không phép trên địa bàn để bảo vệ tốt tài nguyên khoáng sản chưa khai thác. Mặc dù trong thời gian qua các địa phương và các sở ngành đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn, tuy nhiên hoạt động khai thác và kinh doanh mua bán cát không phép trên địa bàn tỉnh, đặc biệt trên sông Đồng Nai đoạn chảy qua thành phố Biên Hòa vẫn còn diễn ra rất phức tạp và tinh vi gây khó khăn cho công tác kiểm tra xử lý, làm tác động xấu đến môi trường sống của người dân sống dọc hai bên bờ sông.
Nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác và kinh doanh mua bán cát xây dựng trên địa bàn tỉnh theo đúng quy định của pháp luật, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 16/5/2011 về tăng cường kiểm tra, xử lý hoạt động bơm hút cát không phép trên sông, rạch thuộc địa bàn tỉnh Đồng Nai, trong đó UBND tỉnh đã đề ra các giải pháp và giao nhiệm vụ cho các ngành các cấp thực hiện tăng cường công tác kiểm tra hoạt động kinh doanh bến bãi, kiểm tra phương tiện thủy, kiểm tra hoạt động bơm hút cát bất hợp pháp.
Thực hiện Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày 16/5/2011 của UBND tỉnh, UBND thành phố Biên Hòa đã chủ động thành lập đoàn kiểm tra tiến hành hoạt động kinh doanh bến bãi, hoạt động khai thác cát bất hợp pháp trên sông Đồng Nai, đồng thời, Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đã phối hợp cùng Công an tỉnh Đồng Nai, UBDN thành phố Biên Hòa kiểm tra phương tiện thủy và hoạt động khai thác cát trên sông rạch trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (theo Kế hoạch số 210/KH-CAT-PC68-PV11 ngày 28/6/2011 của Công an tỉnh; Quyết định số 1019/QĐ-STNMT ngày 01/11/2011 của Sở Tài nguyên và Môi trường).
Qua kết quả kiểm tra, trên địa bàn thành phố Biên Hòa đã phát hiện 13 phương tiện bơm hút cát bất hợp pháp (trong đó: trên địa bàn xã Hiệp Hòa bắt giữ được 03 phương tiện bơm hút cát) các đối tượng và phương tiện bơm hút cát đã được UBND thành phố Biên Hòa xử lý theo đúng quy định, ngoài ra, Đoàn kiểm tra cũng phát hiện 7 phương tiện bơm hút cát neo đậu ven sông Đồng Nai và đoàn cũng đã buộc chủ phương tiện tháo gỡ dụng cụ bớm hút cát.
Để tiếp tục tăng cường kiểm tra xử lý dứt điểm hoạt động bơm hút cát trên địa bàn thành phố Biên Hòa, UBND thành phố Biên Hòa đã xây dựng kế hoạch tiếp tục tăng cường kiểm tra hoạt động bơm hút cát bất hợp pháp, phương tiện thủy và hoạt động kinh doanh bến bãi trên địa bàn thành phố Biên Hòa trong thời gian tới.
2. Cử tri huyện Cẩm Mỹ đề nghị UBND tỉnh sớm giải quyết việc khiếu nại về chế độ bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ dân ở xã Lâm San trong dự án Hồ chứa nước Sông Ray.
Thanh tra tỉnh trả lời cụ thể như sau:
Dự án Hồ chứa nước Sông Ray do Trung ương đầu tư được thực hiện trên địa bàn 02 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Thời gian qua, Chủ tịch UBND tỉnh chưa ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của công dân thuộc dự án Hồ chứa nước Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ là do vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật, phải xin ý kiến Trung ương.
Sau khi có Báo cáo kết luận thanh tra của Thanh tra Chính phủ về giải quyết khiếu nại của công dân thuộc dự án Hồ chứa nước Sông Ray trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận; UBND tỉnh có văn bản số 6259/UBND-NC ngày 14/9/2011 xin ý kiến Thanh tra Chính phủ, tiếp theo đó có văn bản số 7232/UBND-NC ngày 21/10/2011 báo cáo xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về chủ trương để giải quyết khiếu nại của công dân. Ngày 22/11/2011, Văn phòng Chính phủ có văn bản số 8325/VPCP-KNTN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, đồng ý với đề nghị của UBND tỉnh Đồng Nai tại văn bản số 7232/UBND-NC. Ngày 25/11/2011, UBND tỉnh đã có văn bản số 8382/UBND-TCD giao Thanh tra tỉnh hoàn chỉnh dự thảo quyết định giải quyết khiếu nại của công dân thuộc dự án Hồ chứa nước Sông Ray trình UBND tỉnh xem xét, giải quyết trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, Thanh tra tỉnh đang thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh.
3. Cử tri huyện Tân Phú phản ánh: Xã đội và Công an là hai lực lượng quan trọng của địa phương nhưng chế độ thụ hưởng định suất lương có sự bất hợp lý: lương của nhân viên xã đội được mỗi tháng trên 2 triệu đồng, còn lương của nhân viên công an chỉ được 830.000 đ/tháng, trong lúc đó hàng ngày công an xã phải tiếp cận những vấn đề rất nguy hiểm. Đề nghị tỉnh nghiên cứu, xem xét lại.
Sở Nội vụ trả lời cụ thể như sau:
Về chế độ chính sách đối với lực lượng dân quân xã được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 02/QĐ-UBND ngày 04/01/2011 của UBND tỉnh. Chế độ chính sách đối với công an viên xã được thực hiện theo Quyết định số 70/2010/QĐ-UBND ngày 23/11/2010 của UBND tỉnh.
Sau thời gian thực hiện 02 Quyết định của UBND tỉnh, theo ý kiến phản ánh của một số địa phương nói chung và kiến nghị của cử tri huyện Tân Phú, UBND tỉnh đã giao Sở Tài chính chủ trì phối hợp với Sở Nội vụ và các cơ quan có liên quan tiến hành khảo sát thực tế ở một số địa phương (huyện Cẩm Mỹ, Xuân Lộc, Thống Nhất, Long Thành, Nhơn Trạch, ….) thì việc giải quyết chế độ chính sách đối với lực lượng Dân quân và công an xã không đồng nhất, cụ thể như: có một số địa phương chi trả chế độ phụ cấp của lực lượng Dân quân xã ngoài phụ cấp tính theo ngày công lao động bằng 0,08 so với mức lương tối thiểu, còn được hưởng thêm phụ cấp tiền ăn 37.000 đồng cho một ca trực ngày và đêm, mức phụ cấp này không phù hợp với quy định hiện hành. Do đó, để việc giải quyết chế độ chính sách giữa 02 lực lượng này trên địa bàn tỉnh đảm bảo tính thống nhất; hiện nay Sở Tài chính đã tổng hợp ý kiến của các ngành, đang lấy ý kiến Sở Tư pháp pháp thẩm định thể thức, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật (văn bản số 3006/STC-NSNN ngày 11/11/2011 của Sở Tài chính) để trình UBND tỉnh xem xét, quyết định điều chỉnh, bổ sung chế độ phụ cấp giữa lực lượng Dân quân và công an xã cho phù hợp.
4. Cử tri huyện Long Thành phản ánh: về thực hiện huy động đóng góp tự nguyện của nhân dân: mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng hạ tầng các xã, thị trấn, hiện nay địa phương đang áp dụng Quyết định 16/2007/QĐ-UBND ngay 07/3/2007 và QĐ 08/2010/QĐ-UBND ngày 06/02/2010 về quy định tổ chức huy động, quản lý, sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện hàng năm của nhân dân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng các xã, phường, thị trấn. Tuy nhiên, để thực hiện Chương trình MTQG đối với xã nông thôn mới, năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về phê duyệt chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 trong đó mục 5 điều I quy định về vốn và nguồn vốn thực hiện trương trình có huy động đóng góp của cộng đồng dân cư khoảng 10%. Kiến nghị tỉnh có ý kiến về huy động sức dân (tỉ lệ đóng góp đối với xã nông thôn mới) để xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn để địa phương thuận lợi trong triển khai thực hiện.
Sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời cụ thể như sau:
Việc huy động vốn đóng góp tự nguyện của nhân dân và mức hỗ trợ của ngân sách tỉnh, ngân sách huyện trên địa bàn tỉnh là thực hiện theo Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn; và Nghị quyết 77/2006/NQ-HĐND ngày 28/9/2006; Nghị quyết 152/2009/NQ-HĐND ngày 10/12/2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh;
Sau đó, UBND tỉnh đã có Quyết định 16/2007/QĐ-UBND ngày 07/3/2007 và Quyết định số 08/2010/QĐ-UBND ngày 26/3/2010 về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 16/2007/QĐ-UBND ngày 07/3/2007; theo đó đã ban hành quy định tổ chức huy động và quản lý sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện hàng năm của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, phường, thị trấn thì việc đầu tư theo hình thức xã hội hoá là thực hiện trên tinh thần tự nguyện của người dân trong khu vực. Nội dung chủ yếu của việc đóng góp này là huy động các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn và phải do nhân dân bàn bạc và quyết định trên cơ sở dân chủ, công khai, quyết định theo đa số; các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của xã phải được sử dụng đúng mục đích huy động.
Trong khi đó, Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế-xã hội, chính trị, an ninh – quốc phòng gồm 11 nội dung: quy hoạch xây dựng nông thôn mới, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội; chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; giảm nghèo và an sinh xã hội; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả; phát triển giáo dục và đào tạo; phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ cư dân; xây dựng đời sống văn hoá, thông tin và truyền thông; cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã hội; giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn. Việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới để đạt được các tiêu chí theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm đầu tư nhiều dự án, chương trình trên nhiều lĩnh vực và có quy mô rộng lớn hơn so với việc đầu tư cơ sở hạ tầng theo Nghị định 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ nên tổng vốn đầu tư lớn hơn nhiều so với vốn đầu tư công trình hạ tầng theo Nghị định 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 của Chính phủ như trên.
Nguồn vốn đầu tư của các chương trình theo Quyết định số 800/QĐ-TTg bao gồm vốn ngân sách (40%, gồm ngân sách trung ương và địa phương), vốn tín dụng (30%), vốn từ doanh nghiệp hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác (20%), vốn huy động đóng góp của cộng đồng dân cư (10%). Nếu tính 10% vốn huy động trong cộng đồng dân cư cho toàn bộ chương trình thì rất lớn.
Thực tế trong thời gian vừa qua, nguồn vốn Trung ương không hỗ trợ cho tỉnh đầu tư theo Chương trình xây dựng nông thôn mới, trong tình hình nguồn vốn ngân sách tỉnh còn thấp, việc kêu gọi đầu tư từ vốn tín dụng và các thành phần kinh tế khác còn hạn chế do tình hình kinh tế khó khăn (một số dự án không có khả năng kêu gọi đầu tư phải đầu tư hoàn toàn từ vốn ngân sách) nên việc đầu tư cơ sở hạ tầng chủ yếu cũng từ nguồn vốn ngân sách của địa phương và nhân dân đóng góp.
Nếu giảm mức đầu tư hạ tầng xuống còn 10% thì nhân dân phải đóng góp cho xây dựng trường học, trạm y tế xã và các nội dung khác theo chương trình được phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ thì suất đóng góp của dân còn lớn hơn mức hiện nay.
Từ tình hình nêu trên, việc triển khai các dự án đóng góp tự nguyên của nhân dân và mức hỗ trợ của ngân sách tỉnh, ngân sách huyện trên địa bàn tỉnh là thực hiện theo Nghị định số 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 và triển khai các dự án theo Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là 2 nội dung khác nhau; nhưng thực hiện lồng ghép để huy động nguồn lực vừa phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng vừa góp phần đạt tiêu chí xã nông thôn mới.
5.Cử tri phường Long Bình, thành phố Biên Hòa đề nghị tỉnh giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa các hộ dân và Công ty 28 (Khu công nghiệp Agtex) vì hiện nay có hơn 300 hộ dân nơi đây đời sống rất khó khăn do không được đăng ký hộ khẩu, làm chứng minh nhân dân, không có điện, nước máy sử dụng…. Cử tri kiến nghị tỉnh đối thoại trực tiếp với dân để giải quyết các vấn đề liên quan cho các hộ dân có hồ sơ đất đai hợp lệ.
Sở Tài nguyên và Môi trường trả lời cụ thể như sau:
Khu vực đất mà cử tri phường Long Bình đề nghị giải quyết tranh chấp với Tổng Công ty 28 tại khu phố 8, phường Long Bình thuộc quy hoạch đất công nghiệp và nằm trong diện tích đóng quân của đơn vị X28, đã được UBND tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Tổng Công ty 28. Tuy nhiên, do trước đây đơn vị quản lý không chặt chẽ nên để cho các hộ dân chiếm dụng, sử dụng và xây dựng nhà ở….Thời gian vừa qua các hộ dân tại khu vực trên khiếu nại đề nghị không lập khu công nghiệp tại đây và đề nghị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. UBND tỉnh đã điều chỉnh phần diện tích đất trên khỏi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho Tổng Công ty 28. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân tại khu vực trên đã được các ngành và địa phương xem xét, cân nhắc nhưng đến nay chưa có sự thống nhất vì cần phải xem xét nhiều yếu tố liên quan như: Nguồn gốc sử dụng đất của các hộ dân (phần lớn là lấn chiếm, không có giấy tờ), về quy hoạch (không phù hợp), về môi trường (nếu để khu dân cư tại đây thì khả năng bị ô nhiễm rất lớn do vị trí nằm giữa KCN X28, AMATA, LOTECO). Vì vậy trong thời gian tới, Sở Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục tìm giải pháp và phối hợp với các ngành liên quan và địa phương để đề xuất UBND tỉnh giải quyết dứt điểm tình trạng trên (giữ lại làm khu dân cư và cấp giấy CNQSDĐ cho các hộ dân hoặc giải tỏa để thực hiện quy hoạch).
Về kiến nghị tỉnh đối thoại trực tiếp với dân để giải quyết các vấn đề liên quan cho các hộ dân có hồ sơ đất đai hợp lệ: Đối với những hộ dân đã có hồ sơ đất đai hợp lệ, Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo UBND thành phố Biên Hòa giải quyết các vấn đề liên quan cho các hộ dân (Hộ khẩu, chứng minh nhân dân, điện, nước… mà không cần phải thực hiện việc đối thoại. Chủ tịch UBND tỉnh đã có văn bản số 8837/UBND-TH ngày 13/12/2011 giao Chủ tịch UBND thành phố Biên Hòa giải quyết cụ thể các nội dung nêu trên và trả lời cho cử tri được rõ.