Liên kết website


Specified argument was out of the range of valid values.

Trao Đổi TT Với Cử Tri

Từ điển trực tuyến

Tra từ:
Từ điển:

Hình ảnh hoạt động

Hộp Mail

Trang chủBản tin HĐND số 42-T5.2008

nước thải tập trung vào cuối năm 2008.

Đăng ngày: 27/07/2008
Theo số liệu của Sở Tài nguyên và môi trường tại 13 KCN có nguồn nước thải lớn đ được kiểm tra trong năm 2007 có tổng nguồn thải hơn 57.000m3/ngày đêm, trong đó khoảng 19.000m3 thải vào sông Thị Vải và hơn 38.000 m3 thải ra sông Đồng Nai, thì chỉ có khoảng 20.000 m3 được xử lý tại nhà máy xử lý nước thải tập trung (NMXLNTTT). Nhiều KCN đã có NMXLNTTT nhưng đang trong tình trạng quá tải hoặc nước thải đã được xử lý qua NMXLNTTT nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu.
Như ở khu công nghiệp Loteco, lượng nước thải thực tế gần 5.000m3/ngày đêm, gấp gần 2 lần so với công suất NMXLNTTT v một vi thơng số về xử lý nước thải vẫn chưa đạt tiêu chuẩn về môi trường. KCN Biên Hòa 1 có lượng nước thải khoảng 15.000m3/ngày đêm, thế nhưng chỉ có 16 nhà máy ký hợp đồng đưa về NMXLNTTT ở KCN Biên Hòa 2 với khoảng 200m3/ngày đêm. Phần lớn lượng nước thải của các nhà máy thoát qua cống chung của KCN và đổ thẳng ra sông Đồng Nai... Nhiều khu công nghiệp đ cĩ NMXLNTTT khc vẫn cịn nhiều thơng số chưa đạt tiêu chuẩn môi trường qui định (như màu sắc, COD, BOD, chất rắn lơ lửng, dầu mỡ khoáng, chì, coliform... vượt tiêu chuẩn cho phép). Qua kiểm tra của Sở TN-MT, ở 13 KCN có nguồn nước thải lớn và đ xy dựng NMXLNTTT ít nhiều đều gây ô nhiễm về môi trường với mức độ có khác nhau.

Đáng lo ngại hơn là nhiều KCN đã thu hút nhiều nhà máy đi vào hoạt động và có lượng nước thải khá lớn nhưng việc xây dựng NMXLNTTT vẫn cịn nằm trn giấy do vướng mắc về giải phóng mặt bằng hoặc thủ tục xây dựng. Điển hình như KCN Hố Nai (giai đoạn 1) đến nay đ cho thu 82% diện tích đất với lượng nước thải phát sinh khoảng 3.500m3/ngày đêm, nhưng Công ty kinh doanh hạ tầng lại chuyển việc đầu tư Nhà máy xử lư nước thải tập trung của toàn khu công nghiệp sang giai đoạn 2 và đến nay chưa đầu tư do c̣n vướng các thủ tục đầu tư, xây dựng. Cơ quan môi trường đ kiểm tra chất lượng nước thải tại 4 cống thải của KCN này đều không đạt tiêu chuẩn về môi trường. Khu công nghiệp Sông Mây (giai đoạn 1) đ cĩ 36 nh my đi vào hoạt động với nguồn nước thải 2.500m3/ngày đêm nhưng chỉ có 8 nhà máy có hệ thống xử lý nước thải cục bộ. Việc xây dựng NMXLNT tập trung của KCN Sơng My chậm l vì chưa giải phóng được mặt bằng, mặc dù sự việc này đă được Thường trực HĐND tỉnh kiến nghị phải thực hiện cách nay đă 2 năm, nhưng đến nay vẫn c̣n nằm trong ṿng “chỉ đạo”. Khu công nghiệp Bàu Xéo đ cho thu 87% diện tích đất với lượng nước thải 2.800 m3/ngày đêm, song hệ thống thoát nước và NMXLNT tập trung chưa xây dựng vì chưa được phê duyệt thiết kế chi tiết các hạng mục công trình... Qua kiểm tra của Sở TN-MT, có KCN đã có nhà máy đi vào hoạt động nhưng chưa xây dựng NMXLNT đều có nhiều thông số ô nhiễm trong nước thải với mức độ ô nhiễm cao.

Có thể nói, đến thời điểm này thì không chỉ chỉ có Khu công nghiệp chưa có NMXLNTTT, mà ở các Khu công nghiệp đã xây dựng NMXLNTTT ở trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng đang phải tích cực th́ mới hoàn thành trước thời hạn theo mục tiêu của tỉnh đ đề ra vào cuối năm 2008. Với các Khu công nghiệp đ xy dựng NMXLNTTT, thì phải nng cơng suất xử lý để đáp ứng yêu cầu lượng nước thải thực tế, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra để xử lý triệt để các thông số ô nhiễm trong nước thải cịn vượt tiêu chuẩn cho php. Cịn cc Khu công nghiệp chưa có NMXLNTTT như Hố Nai, Sông Mây, Bàu Xéo, Thạnh Phú, Nhơn Trạch 3, Ông Kèo, dệt may Nhơn trạch, Định Quán, Xuân Lộc, Nhơn Trạch 5, thì việc đảm bảo thời hạn đến cuối năm 2008 phải hoàn thành NMXLNTTT sẽ gặp khơng ít khó khăn. Vì thời gian để đầu tư, xy dựng xong một NMXLNT phải mất ít nhất là 01 năm (chưa kể cịn thời gian vận hnh thử để kiểm tra chất lượng nước thải), trong khi có nhiều Khu công nghiệp lại đang vướng về thủ tục hoặc việc giải phóng mặt bằng để có đất xây dựng. Sự chậm trễ trong việc đầu tư NMXLNTTT khơng chỉ phụ thuộc vo cc cơng ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, m cịn cĩ trách nhiệm của các địa phương trong việc giải phóng mặt bằng giao đất cho doanh nghiệp. Cụ thể như Khu công nghiệp Sông Mây, đă nhiều lần Thường trực HĐND tỉnh kiến nghị với UBND tỉnh, UBND huyện Trảng Bom trong việc thực hiện bàn giao mặt bằng cho Công ty kinh doanh hạ tầng KCN xây dựng Nhà máy XLNTTT, nhưng kiến nghị nay đă gần 2 năm vẫn chưa được thực hiện. Khu công nghiệp Hố Nai, ban đầu được duyệt quy hoạch Xây dựng HTXLNTTT ở giai đoạn 1, nhưng việc cho thuê đất giai đoạn 1 đă hết cả phần đất xây dựng HTXLNTTT cho nên Công ty kinh doanh hạ tầng xin chuyển sang đầu tư HTXLNTTT ở giai đọan 2 và từ đó bị vướng về thủ tục xây dựng, kéo dài việc đầu tư HTXLNTTT của KCN... Nhìn chung chung việc quản lý quy hoạch các KCN còn nhiều bất cập, cơ quan quản lư nhà nước chưa thực hiện hết chức năng và nhiệm vụ của ḿnh trong thực thi Luật Bảo vệ môi trường và đây là một trong những nguyên nhân tạo cho các công ty kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp chưa tích cực đầu tư vốn xây dựng HTXLNTTT và kết cục là môi trường ô nhiễm, môi trường sống của các khu dân cư luôn bị đe dọa.

Như vậy, nếu UBND tỉnh không có biện pháp mạnh hơn thì có nhiều khả năng cho tới cuối năm 2008 sẽ cịn nhiều khu công nghiệp chưa thể hoàn thành xong công trình nhà máy xử lý nước thải tập trung.

Nguyễn Thị Phi