Đại biểu Quốc hội tham gia Kỳ họp thứ 5 Khoá XV
Tại điểm c khoản 1 Điều 10 của luật quy định ngoài các điều kiện về
vốn chủ sỡ hữu, điều kiện về vốn chủ sở hữu trên tổng số vốn đầu tư, còn quy định
thêm điều kiện là phải đảm bảo khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư.
Tuy nhiên theo Luật Đầu tư và Luật Đấu thầu cũng đã có quy định rõ việc chủ
đầu tư phải đảm bảo năng lực tài chính trong quá trình thẩm định hồ sơ của dự
án đầu tư, hồ sơ dự thầu và sự chấp thuận đầu tư, đã có rà soát về việc chủ đầu
tư chứng minh năng lực tài chính nên việc quy định thêm tại luật này là không cần
thiết và có thể làm phát sinh thêm thủ tục hành chính.
ĐBQH Bùi Xuân Thống- Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai thảo luận tại Kỳ họp
Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 10 của Luật Kinh doanh bất động sản có bổ
sung thêm điểm d quy định là chủ đầu tư dự án bất động sản phải đảm bảo tỷ lệ
dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn thuộc sở hữu của mình
theo quy định của Chính phủ. Vấn đề này thì hiện nay Chính phủ chưa có quy định
cụ thể về tỷ lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên tổng số vốn
thuộc sở hữu của doanh nghiệp, hiện chỉ có các quy định liên quan đến lĩnh vực
ngân hàng. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu chưa đưa nội dung này
vào dự thảo hoặc là chúng ta có thể đưa vào dự thảo nghị định của Chính phủ,
về vấn đề này để chúng ta tiếp tục tham vấn ý kiến các chuyên gia, các đại biểu.
Điều 18 và Điều 24 về chủ đầu tư không được ủy quyền và được quy định tại
nội dung về trách nhiệm của chủ đầu tư và nguyên tắc kinh doanh nhà ở, công
trình xây dựng hình thành trong tương lai. Tại khoản 4 Điều 18 Luật Kinh doanh
bất động sản quy định là chủ đầu tư không được ủy quyền cho bên tham gia hợp
tác đầu tư, liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh hoặc góp vốn thực hiện ký
kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê nhà ở tại các dự án. Tại điểm
c khoản 4 Điều 24 về nguyên tắc kinh doanh nhà ở, công trình xây dựng hình
thành trong tương lai cũng quy định chủ đầu tư dự án bất động sản có trách nhiệm
không ủy quyền cho người khác ký hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở, công trình
xây dựng hình thành trong tương lai.
Từ trái sang: Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai, PBT TU Đồng Nai Quản Minh Cường, cùng các vị ĐBQH tỉnh Đồng Nai tại Kỳ họp thứ 5
Tuy nhiên, việc này tại Bộ luật Dân sự đã quy định cụ thể tại khoản 1 Điều
138 có quy định là cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và bản chất của việc ủy quyền là việc
thay mặt và nhân danh cá nhân, pháp nhân thực hiện các công việc nằm trong
phạm vi được ủy quyền và bên ủy quyền phải chịu trách nhiệm đối với hành vi bên
nhận ủy quyền thực hiện, với điều kiện là không vi phạm quy định về đạo đức,
không vi phạm về các quy định của pháp luật. Tại Bộ luật Dân sự cũng quy định
rõ nội dung về hình thức, về thời gian, về phạm vi ủy quyền, điều kiện chấm dứt
ủy quyền. Vì vậy, tôi cho rằng là đối với quy định này về nguyên tắc là không
cho phép chủ đầu tư ủy quyền như trên là cần rà soát lại sự phù hợp của quy định
của các bộ luật, để không ảnh hưởng đến nghĩa vụ và quyền lợi của chủ đầu tư.
Kim Chung