So với Luật Thanh tra năm 2004 thì Luật Thanh tra năm 2010 có thêm 2 chương và 9 điều. Đó là chương quy định về Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ Thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên Thanh tra và chương quy định về điều kiện bảo đảm hoạt động của các cơ quan Thanh tra nhà nước và các nội dung liên quan đến trách nhiệm thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý trong và sau thanh tra. Việc cơ cấu các chương này nhằm làm rõ hơn các nội dung cần điều chỉnh trong Luật thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của Luật trong thực tiễn. Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ 4 quan điểm thống nhất sau: Thứ nhất: Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, phương hướng hoạt động Thanh tra và sự phối hợp của các cơ quan thanh tra, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra. Thứ hai: Quán triệt và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Thanh tra. Thứ ba: Bảo đảm sự phối hợp có hiệu quả giữa các công cụ giám sát, kiểm tra, thanh tra của Bộ máy Nhà nước của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thứ tư: Luật thanh tra năm 2010 dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn tổ chức và hoạt động Thanh tra, kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật thanh tra năm 2004; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm hoạt động của các nước trên thế giới về công tác Thanh tra.

Đại biểu tỉnh dự Hội nghị trực
tuyến triển khai luật Thanh tra năm 2010
do Thanh tra Chính phủ tổ chức ngày
24/6/2011
Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích Thanh tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:” Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Về nguyên tắc hoạt động thanh tra được quy định trong Luật thanh tra năm 2010 có nhiều tiến bộ hơn so với luật Thanh tra năm 2004, đó là nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng Thanh tra. Điều 3 Luật quy định các hình thức Thanh tra gồm: Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Định hướng chương trình thanh tra là văn bản xác định phương hướng hoạt động thanh tra trong 01 năm của ngành thanh tra do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ. Kế hoạch thanh tra là văn bản xác định nhiệm vụ chủ yếu về thanh tra của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra trong 01 năm do Thủ trưởng cơ quan thực hiện chức năng thanh tra xây dựng để thực hiện Định hướng chương trình thanh tra và yêu cầu quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp.
Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.Thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước.
Ngọc Hiền