Kết thúc nhiệm kỳ. Với số lượng Nghị quyết lớn như trên, với phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát đến tất cả các mặt đời sống kinh tế xã hội của tỉnh, 205 Nghị quyết nói chung và 94 Nghị quyết chuyên đề nói riêng đã tạo nên những tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Đồng Nai trong nhiệm kỳ, thể hiện vai trò của HĐND tỉnh Đồng Nai trong việc ban hành những quyết sách hợp lòng dân và sẽ còn tiếp tục phát huy vai trò, tác dụng trong những năm tiếp theo. Sự tác động đó có thể đánh giá trên ba lĩnh vực: Kinh tế Ngân sách, Văn hóa Xã hội và Pháp chế.
Đại
biểu biểu quyết tại Kỳ họp
Lĩnh vực Kinh tế Ngân sách là lĩnh vực có số lượng Nghị quyết chuyên đề lớn nhất mà trước hết phải kể đến những nghị quyết mang tính “dài hơi” như: Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2006-2010; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Đồng Nai thời kỳ 2006-2009; Nghị quyết về phát hành trái phiếu xây dựng hồ chứa nước Cầu Mới bằng nguồn huy động từ phát hành trái phiếu công trình. Căn cứ vào những Nghị quyết này, UBND tỉnh đã cụ thể bằng nhiều Quyết định, chỉ thị để triển khai thực hiện, thể hiện rõ nhất thông qua 12 chương trình kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 như: Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực; phát triển cây trồng, vật nuôi chủ lực; phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch; chương trình khoa học và công nghệ hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo hộ trí tuệ trong quá trình hội nhập; bảo vệ môi trường và quy hoạch sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên; phát triển nguồn nhân lực… Chính vì tính hiệu quả của những Nghị quyết chuyên đề cho giai đoạn đồng thời tạo sự thống nhất và tính liên kế trong thực hiện các chương trình, mục tiêu lớn của tỉnh, kết thúc giai đoạn, qua rà soát đánh giá về tính hiệu quả của các chương trình kinh tế xã hội, UBND tỉnh tiếp tục trình HĐND tỉnh xem xét thông qua chương trình phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015 để làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện trong nhiệm kỳ sau.
Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường là những nội dung có nhiều Nghị quyết chuyên đề điều chỉnh nhất (05 Nghị quyết). Vấn đề này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của HĐND tỉnh đối với công tác bảo vệ môi trường mang tính đặc thù của một địa bàn phát triển công nghiệp như Đồng Nai. Để xây dựng Đồng Nai thành một tỉnh cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2015 thì vấn đề kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội và công tác bảo vệ môi trường luôn đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức đối với công tác quản lý nhà nước. Chính vì vậy, một loạt các Nghị quyết liên quan đến công tác bảo vệ môi trường (kể cả trong sản xuất công nghiệp, trong khu dân cư và xử lý chất thải y tế), sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản được ban hành với những mục tiêu, nhiệm vụ và xác định các tiêu chí cụ thể. Căn cứ vào các quy định đó, Thường trực, các Ban, các tổ đại biểu và các đại biểu tiến hành giám sát. Có thể nói, giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND tỉnh trong lĩnh vực môi trường là việc làm hàng tháng. Bên cạnh đó thực hiện dân chủ ở cơ sở về bảo vệ môi trường cũng được tăng cường và sự nỗ lực của các ngành, các cấp gắn kết, phối hợp với giám sát về môi trường, đến cuối năm 2010, địa bàn Đồng Nai đã đạt được những kết quả về hạn chế ô nhiễm và cải thiện môi trường cơ bản như sau: Thu gom chất thải rắn đạt 88,7%; chất thải nguy hại thu gom đạt 100% khối lượng phát sinh tăng 35% so với tỷ lệ thu gom năm 2005; môi trường các khu công nghiệp được quan tâm nhiều hơn, đến cuối năm 2010 có 19/21 khu công nghiệp đang hoạt động đã xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng 6,3 lần so với năm 2005; đã hoàn thành việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; tổ chức phân loại về môi trường và công bố kết quả phân loại.
Vấn đề xây dựng đường giao thông nông thôn trong các khu dân cư, khu phố được HĐND tỉnh khóa VII quan tâm bằng việc ban hành Nghị quyết về xã hội hóa công tác giao thông nông thôn và giao thông khu phố được ban hành lần đầu vào năm 2004. Qua quá trình triển khai thực hiện đã phát huy tác dụng với kết quả bê tông hóa hàng loạt các tuyến đường giao thông nông thôn và giao thông khu phố. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường thuận lợi cho việc huy động sức dân thì vấn đề nhà nước và nhân dân cùng làm được đặt ra. Chính vì vậy đến năm 2006, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về huy động đóng góp tự nguyện hàng năm của nhân dân và mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của xã, phường, thị trấn. Sau bốn năm thực hiện, tiếp thu những kiến nghị của cử tri và nhân dân, Nghị quyết về vấn đề này được điều chỉnh lần thứ hai (năm 2010) theo hướng tăng mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để tạo thuận lợi cho việc xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn và giao thông khu phố trên địa bàn tỉnh. Việc thông qua và điều chỉnh Nghị quyết về vấn đề này cho thấy việc ban hành Nghị quyết của HĐND tỉnh luôn kịp thời, thuận lợi cho công tác triển khai thực hiện và phát huy được nguồn nội lực tiềm tàng trong nhân dân. Kết thúc giai đoạn 2006-2010, toàn tỉnh đã đầu từ trên 2.700 tỷ đồng cho giao thông nông thôn kết hợp với huy động các khoản đóng góp tự nguyện trong nhân dân để đầu tư xây dựng giao thông nông thôn, giao thông khu phố.
Xuất phát từ việc nắm bắt thực tế nhu cầu nhà ở của người dân sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh đặc biệt là công nhân làm việc trong các khu công nghiệp, người nhập cư, năm 2008 HĐND tỉnh ban hành 02 Nghị quyết về chương trình phát triển nhà ở đến năm 2020 và phát triển nhà ở xã hội đến năm 2020. Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh về vấn đề này là rất chậm, đến cuối năm 2010 vẫn chưa hoàn thành mục tiêu đã đề ra (500 căn nhà ở xã hội tại địa bàn thành phố Biên Hòa và huyện Nhơn Trạch) và sẽ được tiếp tục thực hiện trong nhiệm kỳ sau.
Nghị quyết về trợ giá xe buýt đối với 05 tuyến xe buýt trên địa bàn tỉnh ban hành năm 2006 là quyết định có tính đột phá của HĐND tỉnh tác động tích cực đến công tác đảm bảo an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh vốn có nhiều diễn biến phức tạp trong thời điểm những năm 2006, 2007. Sau khi được thành lập, các tuyến xe buýt đã thu hút được đông đảo học sinh, nhân dân tham gia, bỏ dần phương tiện giao thông cá nhân tạo nên nét đẹp trong văn minh đô thị, góp phần vào việc đảm bảo môi trường. Đây là một Nghị quyết chuyên đề được người dân đặc biệt quan tâm, chờ đợi, đón nhận và thụ hưởng những kết quả mà Nghị quyết mang lại.
Ngoài ra, lĩnh vực Kinh tế Ngân sách còn có các Nghị quyết chuyên đề khác về phí, lệ phí; chế độ hội nghị, công tác phí; phân cấp quản lý tài sản; thu phí các dự án BOT… tạo thuận lợi cho công tác quản lý, điều hành của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh.
Thành công và tác động lớn nhất của các Nghị quyết chuyên đề trong lĩnh vực Văn hóa xã hội đó là Nghị quyết số 51/2005/NQ-HĐND về việc phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Đồng Nai với các chương trình, chỉ tiêu về đào tạo lao động kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế xã hội; đào tạo sau Đại học; đào tạo cán bộ nữ; đào tạo bổ sung nguồn nhân lực cho hệ thống chính trị; đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu và đào tạo, bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ, kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt và đào tạo phiên dịch. Với việc triển khai thực hiện Nghị quyết này đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên dạy nghề; nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ CB-CC và người lao động, từng bước tiếp cận với khoa học; xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề được đẩy mạnh để nhân dân chung tay với nhà nước trong việc đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp; tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách được học nghề … tất cả những kết quả này góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và của đất nước.
Trong lĩnh vực Văn hóa Xã hội thì ngành Giáo dục và Đào tạo nhận được số Nghị quyết điều chỉnh nhiều nhất với các nội dung: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc THPT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2005-2010”; chương trình phát triển xã hội hóa hoạt động giáo dục; chế độ đãi ngộ đối với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, học sinh trường THPT chuyên Lương Thế Vinh; chuyển đổi trường bán công sang trường công lập và xây dựng trường THPT trọng điểm chất lượng cao. Với Nghị quyết về xã hội hóa trong hoạt động giáo dục đã khơi dậy mạnh mẽ nguồn lực trong nhân dân phục vụ cho sự nghiệp giáo dục đào tạo của tỉnh; trên địa bàn các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa đã thành lập nên hàng loạt các trường dân lập, trường tư thục đáp ứng nhu cầu học tập từ mần non đến Trung học phổ thông. Nghị quyết chuyển đổi loại hình trường bán công sang trường công lập được đông đảo phụ huynh, học sinh và thầy cô đón nhận, tạo được tâm lý ổn định, yên tâm dạy và học ở thầy và trò từ đó nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; với việc thông qua Nghị quyết này, tỉnh đã chi ra một khoản ngân sách tuy nhiên hiệu quả mà Nghị quyết mang lại là to lớn và lâu dài.
Cùng với tiến trình đô thị hóa, trong nhiệm kỳ HĐND tỉnh đã ban hành nhiều Nghị quyết về đặt, đổi tên đường phố và công trình công cộng tại các địa bàn: Biên Hòa, Long Khánh, Long Thành, Trảng Bom, Định Quán, Tân Phú, Nhơn Trạch và Vĩnh Cửu góp phần vào việc phát triển, xây dựng văn minh đô thị và nâng cao lòng tự hào của người dân đối với lịch sử, truyền thống Cách mạng của người dân Đồng Nai.
Đại
biểu biểu quyết tại Kỳ họp
Nhóm các Nghị quyết về thực hiện chương trình giảm nghèo (03 Nghị quyết) bao gồm: Các Nghị quyết về ban hành chuẩn nghèo cho từng giai đoạn khác nhau và chương trình giảm nghèo bền vững của tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015; mục tiêu giải pháp chương trình giảm nghèo với các giải pháp về cho vay ưu đãi; khuyến nông - lâm - ngư; dạy nghề cho người nghèo; xây dựng nhà tình thương; hoạt động truyền thông; thực hiện tốt công tác rà soát hộ nghèo và các nội dung khác.
Ngoài ra, lĩnh vực Văn hóa Xã hội còn một số Nghị quyết quan trọng khác như: NghỊ quyết về chế độ thu hút và trợ cấp đối với CBVC ngành y tế tỉnh giai đoạn 2009-2011; Nghị quyết về quy định trách nhiệm đóng góp chi phí chữa trị, cai nghiện và hỗ trợ đối với một số đối tượng bảo trợ xã hội; thực hiện công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 có ý nghĩa thiết thực và kịp thời cho công tác quản lý nhà nước tại một địa bàn có một số lượng lớn dân cư di cư tự do như Đồng Nai.
Nổi bật nhất trong lĩnh vực pháp chế là các Nghị quyết chuyên đề về thực hiện các chế độ, chính sách, bố trí chức danh đối với cán bộ, công chức cấp xã: Chế độ trợ cấp thu hút cán bộ cấp xã; tổ chức chế độ, chính sách cho lực lượng dân phòng; quy định tạm thời các chức danh không chuyên trách cấp xã. Các Nghị quyết này đều thể hiện rõ sự phù hợp với những yếu tố mang tính đặc thù của địa bàn tỉnh Đồng Nai, biệu hiện sự quan tâm đặc biệt của HĐND tỉnh đối với công tác xây dựng chính quyền cơ sở, tạo thuận lợi cho thực hiện cải cách hành chính của cấp xã đáp ứng với nhu cầu phục vụ nhân dân.
Tính chất đặc thù quy định trong các Nghị quyết trên thể hiện như sau: Vận dụng Luật dân quân, tự vệ, chức năng của HĐND tỉnh và các văn bản liên quan để Quy định về tổ chức, chế độ, chính sách cho lực lượng dân phòng để xây dựng lực lượng nòng cốt hỗ trợ cho Công an xã trong công tác đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở. Quy định tạm thời về chế độ cho các chức danh không chuyên trách cấp xã theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP để bổ sung vào chế độ đã được quy định trong Nghị quyết của HĐND tỉnh theo quy định của Nghị định số 92. Quy định về chế độ trợ cấp thu hút có trình độ cao đẳng, đại học về công tác ở cấp xã theo đó hướng vào một số ngành, lĩnh vực mà chính quyền cấp xã đang thiếu cán bộ như: Nông nghiệp, Tài chính, Luật từ đó thu hút được một lượng lớn đối tượng là học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng về công tác ở UBND cấp xã.
Nghị quyết về chế độ, chính sách cho cán bộ công chức lãnh đạo quản lý được luân chuyển, điều động trên địa bàn tỉnh đã tạo thuận lợi cho công tác bố trí cán bộ các cấp phù hợp với năng lực, sở trường đáp ứng với yêu cầu của công tác quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Nghị quyết về quy định tạm thời về chế độ hỗ trợ cho các bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại tố cáo tại địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Phân loại đơn vị hành chính được HĐND tỉnh thông qua vào năm 2008 (đơn vị hành chính loại 1, loại 2 và loại 3) là một Nghị quyết có ý nghĩa quan trọng và có liên quan mật thiết đối với việc triển khai thực hiện nhiều chế độ chính sách khác và công tác quản lý trên địa bàn tỉnh: phân loại đơn vị hành chính để có tiêu chí xác định và bố trí biên chế, kinh phí quản lý hành chính; phân loại đơn vị hành chính để có quyết định trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng, thực hiện các chính sách về an sinh xã hội trên địa bàn cấp xã.
Nghị quyết về thành lập phòng Dân tộc thuộc UBND cấp huyện góp phần vào việc đảm bảo cơ cấu, tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn cấp huyện ổn định, tác dụng tích cực đối với công tác quản lý nhà nước trên địa bàn có trên 30 dân tộc cùng sinh sống như tỉnh Đồng Nai. Liên quan đến điều chỉnh địa giới hành chính, trong nhiệm kỳ, lĩnh vực pháp chế HĐND tỉnh ban hành một Nghị quyết về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Thành để mở rộng địa giới hành chính thành phố Biên Hòa. Đây là một Nghị quyết có vai trò đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, tạo động lực mới cho sự phát triển, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh và đảm bảo sự phù hợp với quy họach chung của tỉnh và quy họach vùng lân cận tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sau khi được HĐND tỉnh nhất trí thông qua, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 05/NQ-CP ngày 05/02/2010 để điều chỉnh 4 xã An Hòa, Long Hưng, Phước Tân, Tam Phước từ huyện Long Thành về thành phố Biên Hòa.
Trên 50% số Nghị quyết chuyên đề của HĐND tỉnh khóa VII còn hiệu lực tiếp tục thực hiện mặc dù tình hình kinh tế xã hội trong nước và của tỉnh có nhiều biến động. Đây cũng là một sự thể hiện sức sống, tầm nhìn và khả năng hiện thực hóa các vấn đề của địa phương trong các Nghị quyết chuyên đề của HĐND tỉnh Đồng Nai.
Ngô Trọng Phúc